Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2012

truyen sex hay Sông Cạn

Truyện ngắn Sông Cạn Tác giả: Hồ Anh Thái Manju không nộp mạng. Cả thân hình thiếu phụ quay tròn. Quay tít. Hướng về phía giàn thiêu. Tấm sari gỡ ra thoăn thoắt. Dứt ra khỏi người nàng. Một tòa thiên nhiên ngọc ngà vụt thoát ra khỏi tấm sari. Một bóng trắng hồng bay vào giàn lửa. Đêm cuối cùng. Những giờ khắc cuối cùng cạn dần theo đĩa đèn dầu. Cả kinh thành đã chọn sáng sớm ngày mai là thời điểm thất thủ. Thất thủ. Toàn bộ tướng lĩnh binh sĩ, toàn bộ đàn ông trong thành sẽ mở cổng thành xông ra quyết tử. Toàn bộ phụ nữ và trẻ em trong thành sẽ nhảy vào giàn thiêu. Một cuộc tự sát tập thể. Jauhar. Đấy là cuộc tự sát tập thể của những người đàn bà khi cha chồng anh em trai của họ không giữ được thành. Kẻ thù giết sạch những dũng sĩ và tiến vào trong thành. Nhưng thành quách sẽ không còn một bóng đàn bà trẻ em. Chỉ có những giàn thiêu cực lớn khói lửa ngút trời. Jauhar. Phụ nữ của giới dũng sĩ Rajput tuân thủ chế độ một vợ một chồng. Chồng chết thì vợ góa chết theo trên giàn hỏa táng để bảo toàn phẩm hạnh. Đấy cũng là cách giảm bớt gánh nặng cho cộng đồng. Cộng đồng sẽ không phải khó khăn phiền phức với những người góa phụ còn trẻ mà không đi bước nữa. Đó là chưa kể họ có thể rơi vào tay quân thù. Thành Chittor ở gần sa mạc miền tây Ấn Độ. Ba lần thành bị thất thủ. Ba lần đàn ông bị tàn sát tập thể. Ba lần đàn bà tự sát tập thể. Đẳng cấp dũng sĩ Rajput quyết tử trong chiến trận chứ không chịu bị bắt làm tù binh. Một khi họ chết thì đàn bà chỉ chọn cách chết theo như ta đã biết. Lần thứ nhất là năm 1303. Lần thứ hai năm 1535. Lần thứ ba 1568. Chuyện đang kể là lần bi thảm nhất. Năm 1535. Nàng Manju đi dựng giàn thiêu suốt ngày hôm ấy. Toàn bộ đám đàn bà và trẻ em đi dựng giàn thiêu. Thêm mấy đại đội dũng sĩ đến hỗ trợ. Giàn thiêu dựng quanh hồ nước chu vi hơn một cây số. Tất cả gỗ cây gỗ súc gỗ tấm trong thành. Tất cả đồ gỗ trong thành. Giường tủ bàn ghế cửa chính cửa sổ. Khuân ra tháo ra dỡ ra. Mang ra đến giàn thiêu thì được chặt được bẻ được xếp lại. Giàn cao hơn mặt đất gần một mét, có bậc gỗ để leo lên. Dài hai mươi mét. Rộng mười mét. Có cả trăm cái giàn thiêu như thế vây quanh hồ nước. Sẵn sàng. Manju trở về nhà đã gần mười giờ đêm. Nàng mở rương quần áo tìm trang phục cho mình ngày mai. Nàng chọn tấm sari màu trắng. Phụ nữ Ấn Độ mặc màu trắng trong đám tang chồng. Ngày mai toàn bộ phụ nữ trẻ em đều mặc màu trắng. Nàng tìm tấm áo choàng cho chồng. Ngày mai toàn bộ tướng sĩ đều mặc áo choàng màu vàng nghệ. Màu biểu tượng trí dũng và hy sinh của các dũng sĩ Rajput. Màu tượng trưng cho lửa, lửa lại hỏa thiêu tất cả những gì ô uế. Màu vàng vì vậy là sự trong sạch kiêu hùng. Không ai ngờ tấm áo choàng của đàn ông trong nhà, chỉ dùng vào những dịp lễ trọng, giờ lại phải lôi ra từ đáy rương sửa soạn cho lần xả thân cuối cùng. Đàn bà trong tất cả các nhà đêm nay đều đang lấy áo choàng ra. Áo của cha của chồng của chú của bác của anh của em. Áo màu lửa. Ngày mai những tấm áo này sẽ nhuộm máu. Lửa và máu. Đã muộn. Nhưng Manju không được nghỉ. Đêm nay kinh thành nào có ai được nghỉ. Manju giở tấm áo choàng ra thì mới nhớ. Cái miếng rách trên lưng áo chồng, nàng đã định vá lại ngay từ ngày ấy, thế mà nàng đã quên. Giờ thì miếng rách vẫn còn đấy trong ánh đèn leo lét. Không tìm thấy kim chỉ. Chắc là hộp kim chỉ lăn lóc đâu đấy sau một ngày khuân vác đồ gỗ và giật tung những cánh cửa. Mười chín tuổi, mới lấy chồng hai năm, chưa con cái, nàng không phải bận rộn vá may như những người đàn bà khác. Kim chỉ lâu rồi nàng cũng không nhớ nó ở chỗ nào. - Trong nhà có kim chỉ không? Nàng qua nhà chị hàng xóm thì thầm. Bên ấy đàn ông cũng lên hết vọng gác mặt thành. Chồng nàng cũng lên vọng gác rồi. Chàng chỉ huy đại đội của mình đêm nay canh gác, đề phòng kẻ thù bên ngoài thành tấn công bất ngờ trước buổi sáng. Thành thất thủ theo đúng giờ chủ động của các dũng sĩ. Thành không chịu thất thủ vì bị tấn công bất ngờ. Chị hàng xóm thận trọng tìm khắp nhà. Không gây tiếng động. Ba đứa trẻ nhà chị mệt mỏi đã thiếp đi. Ngày hôm nay chúng theo người lớn đi dựng giàn thiêu. Nhưng chúng không biết ngày mai mình phải chết. Người lớn nói dối chúng giàn thiêu để cúng tế. Mệt mỏi làm chúng ngả người là ngủ ngay. Giấc ngủ như mọi đêm. Mẹ chúng thì vẫn loay hoay lục tìm kim chỉ trong nhà. Không tìm thấy. - Trong nhà có kim chỉ không? Manju lại chạy sang nhà khác. Cô hàng xóm lấy chồng mới được một năm. Bụng mang dạ chửa. Cô đang áp chảo mấy cái bánh bột mì chappati và nấu bát xúp đậu xanh. Bữa ăn cuối cùng. Lát nữa chồng cô sẽ ghé về chốc lát. Tất cả đều đang đói. Thành bị vây hãm hơn một tháng rồi. Vũ khí cạn kiệt. Lương thực cạn kiệt. Lý do nhà vua ra lệnh chọn ngày mai thất thủ. Còn tinh thần đủ cho dũng sĩ Rajput chiến đấu hàng năm trời. Cô hàng xóm bụng chửa cũng không tìm thấy gì trong nhà. Manju đi sang nhà khác. Đêm đầy sao. Khí lạnh từ sa mạc tràn sang bao bọc cả kinh thành trên đỉnh núi. Thành. Đứng ở chân núi giờ này ngước mắt nhìn lên thành Chittor, ta sẽ tin đây chính là Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc. Những bức tường thành chạy ngoằn ngoèo từ núi này sang núi khác. Như là bất tận. Lửa lập lòe những vọng gác trên tường thành. Như là bình thường. Kẻ thù bên ngoài thành biết là bên trong đã nguy khốn lắm rồi, nhưng không biết rằng trong thành đã chọn sáng ngày mai. Manju không lên mặt thành. Chồng nàng ở trên ấy, nhưng đêm khuya thế này khó tìm, ảnh hưởng đến quân lệnh quân luật. Nàng biết dù thế nào từ giờ đến sáng chồng nàng cũng về nhà để lấy tấm áo choàng. Tất cả đàn ông sẽ về nhà để lấy áo choàng. Áo choàng. Một vết rách. Sau đám cưới kéo dài hơn một tuần, thông thường cô dâu chú rể đều kiệt sức. Các loại lễ nghi. Các thủ tục phải làm. Các nhân vật khác nhau phải tiếp. Tập tục. Kết thúc một tuần đám cưới, dâu rể đều hao mòn, có người đứng không vững. Manju và Ravi thì không. Họ quất ngựa chạy dọc theo tường thành xuống núi. Họ lao ra khỏi thành hướng về phía sa mạc. Cát vàng đến tận chân trời. Một dòng sông thiêng cổ đại đã lạc lối vào sa mạc này rồi hoàn toàn biến mất. Sông Sarasvati. Chỉ còn lưu lại trong những truyền thuyết. Chỉ còn lại cái tên. Sarasvati là tên vợ Thần Sáng Tạo Brahma. Nữ Thần Tri Thức, Nữ Thần Thơ Ca Nhạc Họa. Các bậc trí giả thờ thần. Các tài tử văn nhân thờ thần. Ai muốn con cái có học thì thờ thần. Người ta lấy tên thần đặt cho con gái mình. Cặp vợ chồng mới cưới dừng ngựa trong một ốc đảo. Cái nóng mặt trời lúc này sánh sao được cái nóng của chính họ. Lại nữa, ốc đảo có cây xanh cũng dịu mát. Hai người hy vọng tìm ra dấu tích của dòng sông ngu ngơ lạc lối vào sa mạc. Sông đã thành sông cạn. Sông cạn đã hoàn toàn mất tích. Hàng nghìn năm rồi còn gì. Có khi nó đang nằm im dưới ốc đảo này, dưới cát kia, dưới đám xương rồng kia. Nữ Thần Tri Thức đang im lặng khuất mặt, như tri thức đích thực hiếm khi ồn ào lộ diện phô trương. Họ đã nằm xuống bên cạnh đám xương rồng từ lúc nào. Cả một hàng rào xương rồng bỗng trở nên cao hơn tầm nằm của hai người, che khuất họ trong lòng ốc đảo. Lúc này thì cả một dòng sông ào ạt trào dâng. Đi tìm một dòng sông đã mất. Kỷ niệm không bao giờ quên trong đời cặp vợ chồng. Chỉ có một sự cố. Tấm áo choàng dũng sĩ của Ravi bị gai xương rồng cào rách một miếng. Cơn cuồng hoan bên đám xương rồng gây ra vết rách. Manju ân hận đã quên suốt hai năm nay không vá lại áo cho chồng. Lại phải đúng vào cái đêm cuối cùng này số phận bắt nàng nhận ra lỗi của mình. Nàng quay về nhà thì thấy Ravi đã về từ lúc nào. Vợ chồng son. Ưu thế là vào lúc nửa đêm như thế này họ có thể cùng ra khỏi nhà mà không vướng bận. Đi. Lần này thành đang bị vây hãm, không thể quất ngựa ra khỏi thành được. Nhưng vẫn biết bên ngoài thành kia là mênh mông tự do. Mênh mông sa mạc. Hai người có thể cảm thấy sa mạc trong khí lạnh từ đó tràn về. Cảm thấy sa mạc trong mùi cát. Và một con sông nằm lặng lẽ dưới tầng tầng lớp lớp cát và cát. Cặp vợ chồng đổ xuống trong một vườn cây gần chợ. Chốn tấp nập ban ngày bây giờ không một bóng người. Dưới một gốc cây vô ưu cổ thụ. Đêm cuối cùng. Không biết có phải là đêm ân ái cuối cùng của các cặp vợ chồng hay không. Tranh thủ một lần cuối. Những dũng sĩ luân phiên cắt nhau trực, tranh thủ ghé về nhà. Những người vợ đêm ấy không ngủ. Tất cả đều ngồi chờ chồng về. Ám ảnh về cái chết tập thể ngày mai liệu có đem lại cho họ hưng phấn vào lúc này hay không. Manju bật lên một tiếng kêu. Nàng vẫn thường bật lên một tiếng vào lúc ấy. Lần này cũng là tiếng bật ra từ cực cảm. Nhưng lời lẽ thì như buột mồm. Như bị ám ảnh. - Trong thành đêm nay không nhà nào có kim chỉ. Buột miệng. Rồi nàng nhắc cho chồng nhớ về tấm áo choàng bị rách. Nhưng họ không còn nhiều thời gian nữa. Không thể chạy qua tất cả các nhà hỏi xin kim chỉ. Không thể quấy rầy tất cả những cặp vợ chồng tráng sĩ. Người ta đang ở bên nhau những giờ phút cuối cùng. Sáng tinh mơ hai vợ chồng chia tay. Ravi trở lại với đại đội của chàng đang tập hợp trong cổng thành. Manju đi qua các nhà đôn đốc những người đàn bà gọi con cái dậy. Từng đoàn người trang phục màu trắng đi ra phía hồ. Đông người mà rất yên lặng. Như là họ đi viếng một đám tang của ai khác. Các giàn thiêu được chia theo phường theo cụm theo tổ. Những gia đình hàng xóm láng giềng chung nhau một giàn thiêu. Tự lo lấy gỗ lấy dầu lấy lửa cho giàn thiêu của mình. Manju được phân công đứng quan sát trên tháp cao và đánh tín hiệu nổi lửa. Đúng giờ. Không còn một tia hy vọng sẽ lật ngược thế trận. Không một hy vọng vào phép lạ che chở của Thần Bảo vệ Vishnu. Không có một điều lành nào bất ngờ đến vào phút cuối. Vị tiểu vương ra lệnh quyết tử. Chính ngài ngồi trên một con tuấn mã dẫn đầu. Vị tể tướng cùng bao nhiêu tướng lĩnh của ngài đều dẫn đầu. Tất cả hơn ba vạn binh lính. Tất cả đều áo choàng màu vàng nghệ. Một tiếng súng thần công nổ vang. Hiệu lệnh cho đoàn tướng lĩnh. Cổng thành lừng lững mở ra nhanh chưa từng thấy. Người ta đã tra dầu vào các bản lề và chuẩn bị chu đáo từ hôm trước. Cánh cửa nặng cả tấn mở như được giật phắt ra. Một tiếng gầm của đoàn quân quyết tử. Hơn ba vạn người trên lưng ngựa lao từ trong thành ra. Cuộc huyết chiến mặt giáp mặt với đoàn quân Hồi giáo của vua Bahadur Shah. Từ trên tháp cao, Manju thấy những dũng sĩ áo choàng lửa lao ra khỏi thành, nhanh chóng lan ra tỏa ra tràn ra phình ra. Trùm lấp lên đội hình địch. Một dòng sông màu vàng. Binh khí va nhau. Gào thét. Tên bay vun vút. Những ngọn giáo xé gió cắm phập vào mục tiêu. Những nhát chém nhát xả. Cho đến khi không còn thấy dòng sông màu vàng nữa. Nó đã bị lực lượng quân thù đông gấp bội xẻ nhỏ ra, làm cho tan tác. Vương vãi khắp bãi chiến trường. Giờ mới đến lúc của đám đàn bà đang chờ đợi trên những giàn thiêu. Giờ mới thực sự tuyệt vọng. Cánh đàn ông của họ đã chết hết ngoài kia. Không còn ai bảo vệ họ nữa. Từ trên tháp cao, Manju giơ hai tay lên cao. Sẵn sàng chưa. Chị hàng xóm ở bên dưới giơ cao một tay ra hiệu lại. Chúng tôi đã sẵn sàng. Manju quật nhanh hai tay xuống. Hiệu lệnh nổi lửa. Những người đàn bà được phân công trực bên cạnh giàn thiêu lập tức vồ lấy những thùng dầu đặt sẵn ở cạnh đó. Họ vừa chạy quanh giàn thiêu vừa xối dầu vào những súc gỗ. Dầu tích trữ từ các kho nhiên liệu đã được đưa hết ra. Thứ bơ tinh khiết cất từ sữa, vốn dùng để đốt đèn cúng tế trong các nghi lễ thiêng. Dội hết dầu thì họ châm lửa. Manju nhìn thấy chị hàng xóm bịt mắt bịt mũi hai đứa nhỏ đứng cạnh. Hình như có đứa khóc ngằn ngặt ho sặc sụa vì lửa khói. Những người đàn bà lập tức bịt mồm lũ trẻ và giữ chặt không cho chúng làm rối loạn đội hình. Trên giàn thiêu cũng phải trật tự. Bản thân những người đàn bà thì nhắm mắt lẩm nhẩm cầu nguyện. Cũng có thể là những câu mantra thần chú. Tiếng lầm rầm nổi lên lan ra. Chỉ chốc lát đã vang vọng khắp quanh hồ nước. Vang khắp thành. Manju rời tháp cao chạy xuống. Nàng thoáng thấy từ bên ngoài bắt đầu có những toán binh lính địch phi ngựa lao vào trong thành. Nàng chạy xuống đến chân tường thành thì cũng là lúc một tiểu đội kỵ binh đang phi về phía giàn thiêu. Nàng vén cao tấm sari cho nó khỏi quấn vào chân mà chạy. Chạy và vấp ngã. Nàng phải chết trên giàn thiêu. Lửa sẽ hủy diệt và tiêu tan mọi uế tạp và ô nhục của cõi trần. Lửa thanh lọc cho con người. Nàng không thể chết vì những bàn tay nhơ bẩn. Nàng chạy. Vấp. Ngã. Rồi chồm dậy chạy tiếp. Một kỵ binh lướt nhẹ tới áp sát nàng. Chỉ còn dăm bước chân nữa là đến giàn lửa. Gã kỵ binh cúi xuống túm được mép sari vắt trên vai Manju. Nàng vẫn chạy. Sáu mét vải quấn quanh người nàng gỡ dần ra trong khi nàng vừa chạy vừa quay như một con quay. Đám lính tráng xâm lăng đã thành công như vậy với nhiều đàn bà con gái bị chúng tóm được. Túm chặt lấy mép sari mà kéo. Tấm sari gỡ dần ra cho đến lúc hết sáu mét vải, người đàn bà rơi vào thế hầu như khỏa thân. Phản ứng tự nhiên của họ là phải chạy ngược trở lại. Ngược trở lại tức là tự nộp mạng. Manju không nộp mạng. Cả thân hình thiếu phụ quay tròn. Quay tít. Hướng về phía giàn thiêu. Tấm sari gỡ ra thoăn thoắt. Dứt ra khỏi người nàng. Một tòa thiên nhiên ngọc ngà vụt thoát ra khỏi tấm sari. Một bóng trắng hồng bay vào giàn lửa. Kịp lúc con ngựa hí lên hoảng loạn, tung bổng hai vó trước dựng đứng lên. Nó bị bức tường lửa hất ngược trở lại. Năm 1535 ông vua Bahadur Shah từ vùng Gujarat đến vây hãm thành Chittor cho đến khi quân trong thành phải chịu thất thủ. Thảm họa lớn nhất trong lịch sử xảy ra với những dũng sĩ đẳng cấp Rajput. 32.000 dũng sĩ mở cổng thành lao ra cảm tử, trong khi 13.000 phụ nữ và trẻ em tự sát trên một giàn thiêu tập thể. Trên bãi chiến trường bên ngoài tường thành, viên tướng của vua Bahadur phi ngựa lướt qua những cánh quân Rajput nằm la liệt trong vũng máu. Khí hậu sa mạc ngay từ sáng sớm đã nắng nồng. Máu vừa đổ ra đã tanh. Từng đàn kền kền khổng lồ đã bay lượn đen đặc sửa soạn đáp xuống. Từng đàn quạ lượn lờ chờ đợi bay ở trên cao. Viên tướng nhìn thấy Ravi. Chàng trúng một mũi giáo từ phía trước ngực, xuyên thấu ra sau lưng. Chàng ngã từ trên ngựa xuống trong tư thế ngồi gập về trước, như đang ôm lấy cây giáo. Lạ nhỉ, viên tướng nghĩ, mũi giáo xuyên qua chỗ này nhưng lại xé rách áo ở chỗ khác. Thì đúng là như vậy. Mũi giáo xuyên qua lưng chàng Ravi, ngay bên cạnh cái vết rách khiến đêm qua cặp vợ chồng phải bận tâm. Nhưng bây giờ nó chẳng còn nghĩa lý gì. truyen ngan nhom lamtruyen.com Bản quyền thuộc về lamtruyen.com.

truyen sex hay Sống Chết Mặc Bay

Truyện ngắn Sống Chết Mặc Bay Tác giả:Phạm Duy Tốn Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng... thuộc phủ... xem chừng núng thế lắm, không khéo thì vỡ mất. Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức gìn giữ, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy, ngập quá khuỷu chân, người nào người ấy, lướt thướt như chuột. Tình cảnh này trông thật là thảm. Tuy đánh trống liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác, gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cũng mệt lử cả rồi. ấy vậy mà trên trời thời mưa vẫn tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất!... ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu đuối mà đối với sức mưa to lớn, để bảo thủ lấy tánh mạng gia tài; thế thời quan cha mẹ ở đâu? Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì. Trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập mới kê ở gian giữa, có một mình quan phụ mẫu, uy nghi chễm chện ngồi. Xung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan, thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết, giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại, cùng ngồi chầu bài. Ngoài kia tuy mưa gió ầm ầm dân phu rối rít; nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch nghiêm trang lắm, trừ quan phụ mẫu ra, mọi người không ai dám to tiếng. So với cảnh trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đoàn sâu lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ, nguy nga: nào quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới; người nhà, lính lệ như khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh. Thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: "Điếu, mày!" tiếng tên lính thưa: "Dạ"; tiếng thầy Đề hỏi: "Bẩm, bốc?" tiếng quan lớn truyền "ừ". Kẻ này: "Bát xách... Ăn", người kia: "Thất văn... Phỗng", lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười khi nói, vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vì phúc tinh... Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọ, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang dậy trời đất... Mọi người giật nẩy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to. Có người khẽ nói: - Bẩm, đê có khi vỡ! Ngài cau mặt gắt rằng: - Mặc kệ. Rồi ngài xếp lại bài, quay gối dựa sang bên tay phải, nghiêng mình, bảo thầy đề lại: - Có ăn không thì bốc chứ! Thầy đề vội vàng: - Dạ, bẩm bốc. Vừa lúc đó, thì tiếng người kêu rầm rĩ, càng nghe, càng lớn. Lại có tiếng ào ào như thác chảy xiết; rồi lại có tiếng gà, tiếng chó, trâu, bò kêu vang tứ phía. Bấy giờ ai nấy ở trong đình, đều nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, tất tả chạy xông vào, thở không ra lời: - Bẩm... quan lớn... Đê vỡ rồi! Quan lớn đỏ mặt, tía tai, quay ra, quát rằng: - Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?... Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à? - Dạ, bẩm... - Đuổi cổ nó ra! Ngài quay vào, hỏi thầy đề: - Thầy bốc quân gì thế? - Dạ, bẩm con chưa bốc. - Thì bốc đi chứ! Thầy đề, tay run cầm cập, thò vào đĩa nọc, rút một con bài lật ngửa, xướng rằng: - Chi chi! Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to: - Đây rồi!... Thế chứ lại! Rồi ngài vội vàng xòe bài, miệng vừa cười, vừa nói: - ù! Thông tôm, chi chi nẩy!... Điếu mày!... ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ,tình cảnh sầu thảm, kể sao cho xiết! Tạp chí Nam Phong, số 18, tháng 12 - 1918 truyen ngan nhom lamtruyen.com Bản quyền thuộc về lamtruyen.com.

truyen sex hay Sóng Còn Dâng Cao

Truyện ngắn Lùi - Tiếp theo >> Trang 1 trong tổng số 2 Sóng Còn Dâng Cao Tác giả: Bình Huyên Trong xóm Lách gần đường Công-Lý tràn ngập nắng vàng, một người đàn ông khoảng hơn năm chục tuổi, mặt mũi rắn rỏi phong trần đi tới gõ cửa căn nhà gỗ gần cuối xóm. Một bà già lưng còng ra mở cửa. Người đàn ông tháo chiếc khăn màu nước dưa quấn trên đầu, chào : − Chào bà Sáu Hôm. Bà già reo lên : − Kià ! Cậu Trinh ! Cậu được về rồi ! Mời cậu vô trong nhà cho khỏi nắng. Bên trong căn nhà nhỏ bé, hơi tối, chủ và khách ngồi xuống bên chiếc bàn nâu đen cũ kỹ. Bà Sáu Hôm mếu máo : − Mợ Trinh và các con chạy tàu từ hồi đầu, cho tới nay không có tin tức gì hết ! Lúc đó là đầu năm Quí-Mùi, "cậu Trinh" tên thật là Quốc-Ân, chồng của "mợ Trinh" tên thật là Linh-Thoa, trở lại chốn mà gia đình anh cư ngụ cách đó gần ba chục năm. Năm 1992, dược cộng sản thả về sau mười bảy năm cầm tù trong trại học tập, Quốc-Ân quyết định ở lại Việt Nam, ngấm ngầm làm việc nuôi thân và móc nối việc chống cộng sản. Giờ đây, Quốc-Ân và bà Sáu Hôm yên lặng nhìn ra khung cửa đầy ánh nắng càng khiến cho bức tường gỗ càng đen tối hơn. Một trời kỷ niệm hiện ra trong tâm trí họ,... ... Xóm Lách, hai mươi tám năm về trước, cũng vào mùa Hè. Linh-Thoa xách giỏ thức ăn, tập tễnh từ ngoài chợ xóm đi về nhà. Nàng nặng nề bước qua bậc thềm ciment hơi cao, quên cả đóng cánh cửa thấp làm bằng những thanh gỗ mộc, dùng để chắn thằng con nhỏ không chạy ra ngoài khi cánh cửa lớn mở cho thoáng khí. Có tiếng đàn bà từ bên ngoài nói vọng vào : − Chào mợ Trinh ! Mợ làm sao mà bước lặc lè vậy ? Tui thấy mợ từ đàng xa mà vẫn theo kịp về đây. Linh-Thoa, người được kêu "Mợ Trinh", đặt giỏ thức ăn xuống đất, xoay người ngó ra. Bà Sáu Hôm, một người quen ở xóm trong, đứng giữa cửa, nhìn nàng cười toe toét phô bày hai hàm răng trắng đục dính quết trầu đỏ quạch. Một bên má của bà hơi phồng lên, bên trong ngậm cục thuốc lào. Bà bận quần đen rộng ống, áo bà ba vàng in bông nâu. Tay mặt bà xách giỏ. Tay kia cầm ngược hai chân một con gà giò nhỏ bằng trái dứa. Linh-Thoa cười gượng, gật đầu chào bà bạn, trả lời : − Chào bà Sáu Hôm. Tôi tự nhiên bị trặc một bên hông trái. Đi, đứng, ngồi khó khăn vì đau lắm ! Nhà tôi xoa bóp dầu Khuynh-Diệp mỗi ngày mấy lần mà không thấy đỡ. Chắc bị què quá à ! Bà Sáu Hôm vội đi nhanh vào nhà, tới gần Linh-Thoa. Bà đặt cái giỏ xuống đất, lấy tay sờ nhẹ bên hông trái của Linh-Thoa. Đoạn, bà nói : − Hông của mợ sưng khá lớn đấy ! Đau như vậy mà còn đi chợ làm chi cho khổ − Mẹ tôi đang bị cảm, em gái út tôi bận đi làm. Tôi cố đi mua vài món ngoài chợ đầu xóm cho nhà tôi và các cháu có cái ăn tối nay. Ngày mai, cô em chồng tôi sẽ đến đi chợ giùm. Lúc ấy tôi mới đi khám bác sĩ được. Bà Sáu Hôm mau mắn : − Đi bác sĩ làm gì cho tốn tiền mà lại lâu khỏi. Mợ hãy thay quần áo, lên giường nằm chờ. Tui về nhà lấy lá thuốc sang chữa cho mợ. Khỏi ngay tức thì ! Đừng lo. Trinh là tên đứa con gái đầu lòng của gia đình Quốc-Ân và Linh-Thoa. Dân trong xóm dùng tên đó để gọi người mẹ. Vì nghe thấy con cái của hai vợ chồng người Bắc gọi bố mẹ chúng là "cậu, mợ ", bà Sáu Hôm cũng như dân trong xóm gọi người mẹ là "mợ Trinh ", người bố là "cậu Trinh". Họ chẳng cần biết đến tên thật của hai ngườI hàng xóm khả ái đó. Bà Sáu Hôm đi khỏi nhà Linh-Thoa, rồi trở lại thật mau. Bà khép cửa, kéo rideaux, bật đèn. Bà đến ngồi bên lề giường. Tay bà cầm một bọc vải màn nhỏ bằng quả quýt trong đựng cái gì ướt át xanh lè. Bà bảo Linh-Thoa : − Mợ nằm nghiêng, kéo quần cho tui coi hông đau của mợ. Linh-Thoa hỏi : − Bà dùng thuốc gì thế ? − Đây là lá ngải và rễ ngải giã nhỏ. Tui nuôi và thờ cây ngải gia truyền. Mỗi ngày mùng một như hôm nay, tui cúng ngải một con gà giò. Ngải chữa bách bệnh, kể cả gãy xương, trặc gân. Mợ cứ yên trí, nằm yên cho tui chữa. Bà Sáu Hôm cầm bọc ngải chấm nhè nhẹ lên chỗ hông đau của Linh-Thoa, miệng lẩm nhẩm khấn thần ngải. Bà làm như thế trong mười lăm phút. Đoạn, bà kéo quần lót và quần dài của Linh-Thoa cho ngay ngắn. Bà tươi tỉnh bảo nàng : − Bây giờ, mợ Trinh thử ngồi lên coi. Linh-Thoa từ từ ngồi lên, cảm thấy hông của mình không bị kến như lúc nãy. Bà Sáu Hôm lại bảo : − Mợ đứng lên, đi lại tôi coi. Linh-Thoa chống tay xuống giường, rụt rè đứng lên. Nàng thấy hông hết hẳn đau. Nàng bước vài bước, thấy người nhẹ nhàng như chưa hề bị trặc hông bao giờ ! Bà Sáu Hôm bảo : − Chiều nay, tui đến làm cho mợ một lần nữa là khỏi hẳn. Bạn bè chòm xóm, tui làm miễn phí cho mợ. Đừng thắc mắc làm chi. Linh-Thoa nói : − Tôi cám ơn bà Sáu vô cùng. Ngải của bà hiệu nghiệm quá. Bà cúng gà cho ngải như thế nào ? − Cứ buổi tối ngày mùng một mỗi tháng, tui thắp hương khấn vái thần ngải, rồi vật chết con gà giò, để nguyên con vào gốc ngải trên mặt đất trong chậu. Qua đêm, sáng hôm sau, con gà sẽ tiêu hết, chỉ còn lại mớ lông. Thôi, tui về, mợ nhé. Kỷ niệm đó hoà trộn cùng biết bao kỷ niệm khác đã tạo nên tình hàng xóm thân thiết giữa gia đình Quốc-Ân Linh-Thoa và những nguời trong xóm. Đặc biệt với bà Sáu Hôm, tình thân ấy rất sâu đậm. Ngày Việt cộng chiếm Sài-Gòn, một số gia đình trong xóm bỏ đi. Bà Sáu Hôm và gia đình Linh-Thoa vẫn ở lại. Quốc-Ân, thiếu tá quân đội Việt Nam Cộng Hoà, phải đi học tập với các sĩ quan khác. Linh-Thoa ở lại nuôi hai con nhỏ bằng nghề y tá. Ngoài ra, nhờ trước kia học trong trường soeurs, nàng còn thạo làm hoa bằng voile và giấy màu, giao bán cho các cửa tiệm trong chợ Bến Thành. Bọn nữ cộng sản từ Bắc Việt vào Sài Gòn thích mua hoa voile, hoa giấy. Tuy nhiên, cuộc sống chật vật dần lên. Linh-Thoa tâm sự với bà Sáu Hôm : − Ở với bọn Việt cộng ngu dốt này, không sao khá nổi. Nhà tôi đi học tập mãi chưa được thả về. Các cháu học hành thất thường, vì thày cô của chúng dần dần bỏ sở. Nói riêng với bà Sáu. Có người mách cho tôi đường chạy tàu ra ngoại quốc. Mỗi đầu người mất ba lượng vàng. Con nít được bớt một nửa. Gia đình tôi gồm cháu gái và cháu trai nhỏ sẽ tốn sáu lượng. Như thế là gần hết sạch của hồi môn dành dụm từ hồi cưới nhau. Mỗi lần đi thăm nuôi, nhà tôi đều rỉ tai :"Em phải mang hai con đi trước. Khi nào anh về, sẽ đi sau". Bà Sáu Hôm mau nước mắt, mếu máo : − Mợ và tụi nhỏ đi là tui buồn nhớ lắm ! Nghe nói cướp biển bắt đầu hoành hành dữ lắm. Chúng giết người, cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái. Một số bị bắt mang vào đất liền thảy vào ổ điếm, chết dần chết mòn ở đó. Nhưng đi là đi. Mọi sự là do mệnh Trời. Tui còn nhiều dây mơ rễ má ở đây, không đi được. Khi nào mợ nhất định đi, cho tui biết với. Những gì mợ nói, tôi sống để bụng chết mang theo. Mợ cứ yên trí. Trước ngày ra đi một hôm, Linh-Thoa chỉ từ giã có mình bà Sáu Hôm. Bà này căn dặn nàng đủ điều. Bà đưa cho nàng một gói giấy, bảo : − Đây là một ít lá và rễ ngải. Linh lắm. Đi sông, đi nước, mợ và tụi nhỏ cần mang theo để hộ mạng. Khi nguy hiểm, mợ và tụi nhỏ hãy làm như thế này... Bà Sáu Hôm ghé sát miệng vào tai Linh-Thoa thì thào, như sợ tiết lộ bí mật thần linh. Hai người bạn gái, một người đứng tuổi, một người còn trẻ, bịn rịn một lúc lâu, mới chia tay vĩnh biệt nhau trong nước mắt !... Dòng kỷ niệm trên đây ngừng lại trong tâm khảm bà Sáu. Quốc-Ân nhìn vào cặp mắt kèm nhèm buồn rầu của bà Sáu, vì tuổi già và vì cảm động. Anh chầm chậm nói nhỏ : − Hằng đêm, nằm trong trại tù cộng sản, cũng sau như khi được thả, một mình phòng không gối chiếc, tôi lấy lại được sinh lực nhờ những giấc mơ trong đó tôi gặp nhà tôi và hai cháu. Bắt đầu chỉ là những giấc mơ. Sau tôi dần dần nhận ra đó là giao cảm thần kỳ giữa tôi và vợ con tôi. Do đó, tôi biết vợ con tôi đã lìa trần ngay từ năm 1981, khi họ chạy tầu để sang vùng tự do. Họ đã hiện về cho tôi biết những gì xảy ra từ đó cho tới nay. Trước cặp mắt ướt át chứa đầy cảm xúc của bà già người hàng xóm, Quốc-Ân khe khẽ kể tiếp câu chuyện từ những hình ảnh âm thanh mùi vị trong biết bao giấc mơ mà anh đã trải qua,... Mẹ con Linh-Thoa thu xếp hành trang thật gọn gàng, ra đi thật kín đáo. Họ được người dẫn đường đưa xuống Hà-Tiên. Lúc đó là tháng Tám dương lịch năm 1981. Sau ba ngày chui rúc trong căn lều chật hẹp, thiếu tất cả mọi tiện nghi, gia đình Linh-Thoa được đưa lên một chiếc tàu đánh cá ba blocs. Trên tàu có khoảng mười người đàn ông con trai, mười người đàn bà con gái, và tám đứa con nít dưới mười tuổi. Tàu lặng lẽ rời bến vào hồi mười một giờ đêm. Cuối tháng không có trăng, trời tối như mực. Từ bờ ra đến gần hải phận quốc tế, tàu chưa mở máy và được hai chiếc thuyền lớn kéo đi. Sáng sớm hôm sau, tàu bắt đầu m? máy chạy ra khỏi hải phận Việt-Nam, nhắm hướng Mã-Lai. Qua một ngày êm đềm, tàu đi trong hải phận quốc tế. Năm giờ chiều, trong khi mọi người đang chuẩn bị ăn bữa chiều, tàu của họ bị hai tàu đánh cá khá đồ sộ kèm hai bên mũi. Nhìn đám người mặt mũi hung ác, đen đúa, đầu quấn khăn carreaux đỏ, đám thuyền nhân biết mình đang gặp cướp biển. Mười đàn ông con trai thủ sẵn vũ khí trấn hai bên đầu tầu. Mười người đàn bà con gái cùng đám con nít tụ lại cuối tàu. Một thuyền nhân nói lớn bằng Anh ngữ: − Chúng tôi là dân tỵ nạn cộng sản, không có tiền bạc, quý vật. Yêu cầu các ông để chúng tôi được thong thả vào đất liền Mã-Lai xin tỵ nạn ! Bọn cướp biển nhao nhao. Một thằng vung mã tấu hét to : − Muốn tiếp tục đi, chúng bay hãy nhảy xuống nước mà bơi. Để lại đồ đạc và đàn bà con gái, kể cả con gái nhỏ cho chúng tao ! Thuyền nhân Việt-Nam hét lên giận dữ: − Hãy để chúng tao đi, hoặc cùng nhau tử chiến ! Tên giặc biển cũng thét lên : − Chúng tao phá tan tàu, giết hết tụi bay!. Linh-Thoa cùng chín phụ nữ nghe thấy vậy sợ run lên. Nàng quay lại nói lớn với các bạn đồng hành cùng phái : − Chúng ta quyết không để bọn giặc biển dơ bẩn giở hỗn với gái Việt ! Các chị em hãy cùng tôi nắm tay mấy đứa nhỏ đâm đầu xuống biển ! Một nửa số phụ nữ gật đầu đồng ý. Một nửa la hoảng : − Nhảy xuống biển bị cá ăn, ngộp nước đau lắm ! Linh-Thoa nói nhanh : − Tôi có ngải rất linh nghiệm. Mỗi người ngậm trong miệng một lá ngải, tay nắm một cọng rễ ngải. Không sao đâu ! Nàng phân phát nhanh lá ngải và rễ ngải cho đám phụ nữ và con nít. Ở đầu tàu, cuộc đụng độ giữa đàn ông Việt-Nam và bọn cướp biển đang xảy ra khốc liệt. Một số thuyền nhân bị hạ sát thảm thương. Bọn cướp biển sắp nhào tới chỗ các phụ nữ Việt-Nam. Linh-Thoa hét lên, hai tay ôm cả hai đứa con của nàng, bước lên thành tàu, nhảy xuống biển. Các phụ nữ kia cũng nắm tay tất cả các em bé nhảy xuống theo. Lạ thay ! Họ thấy mình rớt từ từ, như thể được một tấm thảm không khí vô hình đỡ lấy. Từ xa, người ta thấy một hàng nữ nhân tóc dài lượt thượt tay dắt các em bé, tất cả quần áo bay lất phất, từ từ hạ xuống mặt biển. Cả đám nữ nhân cùng trẻ con đó lặng lẽ chìm dần trong làn nước một cách nhẹ nhàng, rồi biến mất dưới các lớp sóng dập dềnh. Thuyền nhân đàn ông cảm tử cuối cùng đã bị chém bay đầu, lăn ra sàn tàu. Bọn cướp biển trố mắt nhìn cảnh đám nữ nhân Việt-Nam được biển cả đưa xuống lòng biển như đón các nữ thuỷ thần. Lần đầu tiên bọn cướp biển Mã-Lai chứng kiến cảnh tượng kỳ lạ đó ! Quên cả việc lấy đồ, phá tàu, chúng hè nhau nhảy về tàu của chúng, rồ máy chạy mất. Chiếc tàu không chủ đầy xác người trôi bập bềnh trong màn tối đang buông xuống khắp mặt Biển Đông bao la, bí mật. Trong đêm tối, cơn bão biển chợt nổi lên. Sấm sét đinh tai, chớp nhoáng chói loà, mưa đổ ào ạt. Buổi sáng trở lại với mặt biển bình lặng. Con tàu không người lái vẫn trôi nổi. Sàn tàu vắng tanh. Dấu vết tàn sát đã được nước mưa rửa sạch. Máy tàu không nổ nữa vì hết dầu. Buổi chiều trở lại như cơn mộng. Ánh mặt trời vừa tắt, trên tàu bỗng hoạt náo hẳn lên. Đèn tàu thắp sáng chưng. Trên tàu toàn bóng đàn bà, con nít, đi qua đi lại. Thân hình họ lồng lộng trong lớp áo quần bay phất phơ theo gió. Một lúc sau, bốn chiếc tàu đánh cá từ đâu xông tới, bao vây chiếc tàu phụ nữ Việt-Nam. Chúng mừng rỡ hò hét điên cuồng khi thấy trên tàu nhiều đàn bà con gái vô cùng xinh đẹp, trên người đeo đầy vàng bạc kim cương lấp lánh. Một đám con nít đứng ở cuối tàu nắm tay nhau ca hát quay thành vòng tròn. Lần lượt, khoảng một chục tên cướp biển của mỗi chiếc tàu nhảy sang chiếc tàu đơn độc. Lúc đầu, đám phụ nữ chỉ có mười người. Lạ thay, số cướp biển càng gia tăng, số phụ nữ trên tàu càng nhiều lên. Bọn cướp không để ý điều này. Chúng ào tới trà trộn với đám đông phụ nữ. Mỗi đứa nắm lấy hai tay một phụ nữ đè xuống sàn tàu miệng hú hét như những con chó dại. Chợt tất cả các tên cướp biển im bặt. Mắt chúng trợn trắng, mồm há to nhưng không phát ra tiếng kêu nữa. Hai tay của từng đứa bị đôi bàn tay có móng nhọn sắc xiết chặt, xương gãy rọp rọp. Mỗi phụ nữ lật người, ngồi lên bụng mỗi tên cướp biển, xỉa hai ngón tay nhọn hoắt vào cặp mắt của những tên cướp biển. Tiếng Linh-Thoa quát lanh lảnh : − Chị em hãy liệng hết lũ giặc biển sang tàu của chúng ! Đám con nít ở cuối tàu vẫn ca hát vang lừng. Bọn cướp biển Mã-Lai bị gãy hai bàn tay, mù đôi mắt, nằm ngổn ngang trên tàu của chúng, rên la thảm thiết. Bốn chiếc tàu trôi nổi trên biển cả. Âm thanh kêu cứu lạc giọng nhỏ dần, biến mất. Chiếc tàu ma tỵ nạn từ từ chìm xuống biển, mang theo mười phụ nữ và đám con nít. Họ đã trở thành những thuỷ thần hộ mệnh của người tỵ nạn Biển Đông. Trong khi ấy, tại một số thành phố bờ biển của Mã-Lai và Thái-Lan, có những ổ điếm chứa nhiều gái Việt-Nam bị bắt cóc, hãm hiếp, rồi thảy cho bọn ma cô, tú bà bóc lột hành hạ. Các phụ nữ bất hạnh đó vừa bị huỷ hoại thân xác bằng những cuộc truy hoan cưỡng bách, vừa bị xa đoạ về tâm hồn cùng trí não vì những mũi chích ma tuý bắt buộc. Họ biến đổi từ con người sang thú vật rất mau, trước khi lăn ra chết như những đồ vật vô giá trị. Lùi - Tiếp theo >> truyen ngan nhom lamtruyen.com Bản quyền thuộc về lamtruyen.com.

truyen sex hay Sông Cũ Đổi Dòng

Truyện ngắn Sông Cũ Đổi Dòng Tác giả: Nguyễn Danh Lam 1. Sông chảy đến đấy thì đổi dòng. Nhưng con nước còn chưa ngủ hẳn, mấy trăm năm vẫn một sắc trôi lờ đờ. Nơi hai đầu hồ, bây giờ người ta gọi sông như thế, còn sót lại hai con lạch nhỏ. Bên chảy vào, bên chảy ra. Khoảng đất là đầm lầy trước kia đã thành bãi bồi. Đất tốt. Làng mọc lên ở đó, chen giữa lách lau. Nghe đồn trong hồ vẫn có cả thuồng luồng. Dấu chân chúng cứ sáng ra còn lướt trên mặt bùn. Các cụ bảo cứ ra đấy mà ỡm ờ, thần lôi xuống thủy cung cả nút. Thanh niên bảo con gái thủy tề vật nhau với ai mà khiếp quá. Còn trẻ nít từ chặp tối đã đòi tè trong nhà. Chuyện ấy từ hồi lão còn trẻ... 2. Tàu thủy ngang sông, còi chiều vọng về hút hút. Lũ trẻ ôm bóng từ bãi về gào lộng: - Ông dở ơi, về đi! Lão choàng mắt, lụi cụi ra mé nước vớt cái giỏ lên. Đáy giỏ bám vài con ốc vặn. Ống bơ thính đã cạn. Trong hộp mồi, lũ giun bò đi đâu hết. Lão thu cần, nhìn mặt nước lần nữa, thấy có vài cánh chim lướt ngang nền trời xám. Đứa cháu gái dựng xe trước ngõ, te tái chạy vào: - Gầm giường còn khoai không ông? Lão đáp, mắt vẫn nhắm: - Còn. Đứa cháu gái bảo: - Mai ông qua nhà ăn cơm. Hai ngày ăn khoai phải một ngày ăn cơm. Lão chẳng đáp, chừng như đã ngủ. Đứa cháu gái dắt xe. Thoáng đã nghe tiếng líp xè xè ngoài ngõ. Căn nhà đầy muỗi. Lão lại bàn, vớ cây đóm, bật lửa. Nạm thuốc lào đã nhồi vào nõ, nghĩ sao lão lại quẹt ngang cho cây đóm tắt. 3. Lão đi cày thuê cho nhà hàng xóm. Cách cái rào tre, bên kia giàu, bên này nghèo. Gặp hôm đang tì tũm bám mông trâu thì cô về ngang. Mặt lão cứ dán xuống bùn. Cô qua, cố ý dừng lại mé ruộng: - Chào anh giáo! Ây quên anh sáo! Lão cắn răng: - Không dám, chào cô! Đấy là cô cố ý, gọi anh sáo thành anh giáo để chọc chơi. Một chữ bẻ đôi lão không biết, nhưng nhà có nuôi con sáo, cái lồng treo trước cửa. Suốt ngày sáo nói: Cáo cáo. Có lẽ nó lẫn giữa hai âm, cào cào, thứ vẫn ăn hằng bữa, và sáo sáo, thứ lão vẫn gọi hằng ngày. Cô đẹp, ra đến chợ huyện vẫn nghe đồn. Đuôi mắt dài quết tóc mai. Tóc mai dài quết cái cằm trắng nuốt. Phiên chợ huyện. Lão xách cái lồng có con sáo đứng đón ngay gốc gạo giữa đồng. Cô về ngang. Lão cầm cái lồng chắn giữa lối: - Ấy hãy lấy tôi! Cô nhìn cái lồng có con sáo nhảy lách chách, cáo cáo: - Anh cầu hôn tôi bằng con... cáo này ý hả? Mắt lão nháng lửa, nhưng vẫn gật: - Vâng! Cô bảo: - Tôi không cần cáo, cũng chẳng cần sáo. Anh có ra hồ câu được con cá chép vàng nặng mười cân, hôm trước đem đến nhà tôi, hôm sau tôi về nhà anh! Lão gật, cầm cái lồng lùi lũi bước đi. Được mấy bước, đột nhiên quay lại bảo: - Tôi sẽ có cá. Nhưng gì thì gì, đừng có mà khinh con sáo của tôi! - Ừ - cô gật. Lão bước đi. Được vài bước, lại lần nữa giật nhoàng người, quay lại: - Cơ mà cô phải thề! - Thề cái gì? - Thề trước cây gạo này. Nếu tôi câu được con cá chép, cô phải giữ lời! Cô ngước mắt nhìn cây gạo: - Ừ thề! - Thề trước cây gạo. - Ừ thề trước cây gạo. Nếu anh đây câu được con cá chép vàng nặng mười cân, tôi sẽ về nhà anh ấy. 4. Lão ra hồ buông câu, dưới gốc sung. Bỏ hẳn việc cày bừa. Ban đầu làng lạ lắm. Về sau miệng cô không giữ nổi. Thế là cả làng biết. Người lớn bụm miệng cười. Bọn trẻ kéo bè núp sau bụi lau, thi thoảng ném cục đất ùm một cái. Lão tức chửi um thiên địa, nhưng vẫn kiên quyết không bỏ cần đuổi theo bọn chúng. Được thể, chúng tha hồ ném. Ném đến khi lão không còn chửi rủa nữa. Chán. Bỏ trò chơi. Còn lại bóng lão ven hồ. Gió thổi qua hình hài trong suốt những chiều đông u uất. Có người thương, bảo: - Anh ngồi thế này, khéo khi câu được cá, cô ấy tay ẵm tay bồng rồi cũng nên! Lão rút soạt cái thuổng dùng đào giun, kê ngang cổ người ấy: - Mày nói nữa, ông chém! Từ đấy, chẳng còn ai để ý. Người em trai lấy vợ. Hôm đón dâu về nhà lão cũng mặc. Hai vợ chồng mang nghĩa vụ nuôi cả ông anh gàn dở. Bữa ngô bữa khoai. Vẫn đủ sức cho lão buông cần. 5. Hôm ấy, lão buông cần đến tối. Tâm trạng cả ngày như ngồi trên đống lửa. Mắt nhìn xuyên qua làn nước, lão thấy rõ bóng con cá vàng. Đúng là nó, lão không thể nào hoa mắt được. Những đốm vảy to bằng chiếc lá mít, màu vàng cam, ánh ngời qua làn nước. Cái đầu u lên, hai mép ve vẩy hai sợi râu đỏ quạch. Lão khoát nước rửa mặt mấy lần, vẫn thấy nó trôi chầm chậm qua làn nước trong veo. Chiều buông vàng. Đêm xuống. Trăng lên. Lão điên dại ghì cần câu bằng cả hai tay. Con cá vẫn trêu ngươi. Cái phao trắng sáng lên dưới ánh trăng chẳng buồn động đậy. Sương sa đầm mặt cỏ, lũ dế lật đất ruộng lên mà gáy. Tịch mịch đồng khuya. Bỗng lão giật nhoàng mình. Cái phao, cái phao nó nhún. Một đầu thụt xuống, rồi lại bềnh lên. Giống cá chép ăn sâu. Rỉa mồi theo kiểu nhấp nhả. Cái phao phải mấp máy ba bốn lần, đến khi quả thực bị lôi đi thì mới giật. Và gì thế kia, nó, cái phao, cái phao đang bị lôi đi thật! Đầu cần trúc cong vòng, nhùng nhùng quẫy động. Lão ghì chặt hai tay. Một sức nặng khủng khiếp vít đầu cần câu xuống. Con cá chép vọt lên khỏi mặt nước. Mình nhễ nhại ánh trăng. Những chiếc vảy vàng như tự phát sáng. Nó không phải chỉ mười cân. Phải hai mươi cân. Hay ba mươi cân. Hay còn hơn thế nữa! Máu dồn lên mặt lão. Đất thụt sâu đến gối. Con cá tung mình thêm lần nữa. Bỗng rắc, chiếc cần gục ngang. Một nửa nằm trên tay lão. Nửa kia lao vào mặt nước. Lão còn kịp nhìn thấy một vệt sáng thút sâu xuống đáy thủy cung. Và lão lao theo. 6. Cô đi lấy chồng. Chẳng đâu xa. Người ngay cùng xóm. Lão ôm cây gạo giữa đồng. Bấu chặt mười ngón tay vào những mấu gai. Thân cây gạo đỏ ròng ròng. Máu lão. Máu cây. Máu của mối tình đơn phương u uất. 7. Tiếng máy về đầu xóm. Trẻ nít bu đen. Xe đất đi, xe đá đến. Lũ choai choai về ngang: - Ông dở ơi, máy xúc ông đi đổ kia kìa! Lão mặc. Râu tóc lơ phơ. Đêm, người em xách sang nhà anh cút rượu: - Hôm nay anh phải uống với em. Lão chẳng nói gì. Người em lặng lẽ rót rượu ra chén: - Đất quanh hồ qui hoạch rồi anh ạ. Chẳng mấy thì bứng cả gốc sung chỗ anh ngồi. Anh nên về nhà nằm nghỉ. Lão bưng chén rượu lên. Vẫn râu tóc lơ phơ. Rượu hết. Người em lảo đảo ra về. Tiếng chó sủa xen tiếng truyền hình phát muộn. 8. Lão vẫn ra hồ. Máy xúc đến sát mông đành dừng lại. Một người mặc comlê đến, nhìn rồi đi. Ba người mặc đồng phục đến, nhìn rồi đi. Cuối cùng “cô” đến. Chính cô của ngày xưa: - Anh phải về thôi! - Tôi vẫn nhìn thấy nó. - Anh thấy gì cơ? - Con cá chép. “Cô” rùng mình. Quay sang mọi người xung quanh: - Tôi chịu! 9. Máy đi. Làng quê yên ả lại. Nhưng những cái cọc trắng đã mọc lên. Đường xe chạy sau lưng lão. Gốc sung vẫn còn. Lão vẫn còn. Một bức tường xây, quây quanh ba mặt, mặt còn lại là hồ, bỏ trống. Hằng ngày lão xách giỏ leo tường vào. Sân sau lát gạch đến sát gốc sung đành dừng lại. Người chủ lô đất dọn về nhà mới. Họ mở cổng trước cho lão vào mỗi ngày. Người vợ ban đầu còn thấy là lạ, lão ngồi đấy cũng giống bức tượng ngư ông trang trí, sau đâm chán. Chó không dám thả. Người không dám vắng nhà. - Anh này, có lẽ mai ta phải đuổi ông ấy đi! Lũ con hùa theo: - Đúng đấy bố. Con thấy chán ông này quá rồi! Bố lũ trẻ lắc đầu: - Thôi kệ cụ. Cũng chẳng còn bao lâu... truyen ngan nhom lamtruyen.com Bản quyền thuộc về lamtruyen.com.

truyen sex hay Sóng Dậy Giữa Lòng

Truyện ngắn Sóng Dậy Giữa Lòng Tác giả: Lê Du Miên - Con Út đâu rồi ? Ra đây mợ bảo . - Có chuyện gì vậy mợ .? Con đang bận lắm . - Bận chi cũng phải ra đây mợ bảo . Gọi hoài mà chả thấy cô Út ra . Bà Tám lẩm bẩm :” Mẹ nó , từ ngày qua Mỹ tới giờ , mấy đứa nhỏ cứng đầu , cứng cổ, chẳng có khuôn phép chi cả “ . Bà đứng lên, bước về phía phòng cô Út . Đẩy cửa phòng , bà thấy cô Út đang trang điểm, đang vẽ mắt, đang tô môi .” Gớm thấy cái mái tóc hai ba màu của mày mà lộn tiết . Ở Mỹ chứ nếu ở Viêt Nam ngày xưa thì tao cạo trọc cái đầu mày con ạ “. - Có chuyện gì mà mợ gấp gáp quá vậy ? Sao mợ không gõ cửa phòng trước chớ . Đã nói mợ nhiều lần rồi mà mợ cứ … - Cứ làm sao , bà nội nhà cô . Ai thuở đời nào con cái mà cha mẹ mời ra nói chuyện đã không thèm ra , để mẹ phải vô tận phòng …thưa chuyện mà còn trách móc . Đồ con gái hư . - Thôi mợ , vậy chứ có chuyện gì ? - Thì chuyện về Việt Nam làm đám cưới giả với thằng Tèo con ông Cả Đọt đó Cô Út thở dài : - Con đã bảo là con “ ken xồ “ rồi . Con không làm nữa . - Bà Tám gắt lên :” Tại sao ? Đừng có trẻ con quá con ạ . Đã nhận lời người ta và nhận cả tiền cọc nữa rồi . Bây giờ con nói con thôi , biết ăn nói mí người ta làm sao đây hả con ? - Mợ nói sao thì nói , con không biết … Chứ thằng Tâm , bạn trai con nó không chịu, con cũng hết cách . Con phải đi đây . Nói xong cô Út ngúng nguẩy bước ra khỏi phòng, mặc bà mẹ nhăn nhó, lo toan . Bà Tám ôm đầu bức tóc , nhớ lại cái ngày xưa khi còn ở ngoài Bắc, gia đình lễ giáo khắt khe, chị em bà Tám kính sợ bố mẹ lắm, các cụ nói , phận con chỉ biết nghe rồi dạ, rồi vâng , chứ đâu có như bây giờ . Bà nhớ hồi bà lấy ông Tám rõ ràng là đều do bố mẹ bà quyết định hết . Rồi năm 54, di cư vào Nam cũng toàn theo ý của ông cụ và ông Tám cả . Từ ngày ông Tám mất đi, bà mới thấy trong gia đình thiếu một tay đàn ông, thật là không thể được . Bà nhận ra sự khó khăn trùng điệp khi lèo lái một gia đình , mặc dù cuộc sống nơi đây, như bà, không phải lo toan về miếng cơm manh áo, đã có chính phủ lo, mỗi tháng bà được nhận lãnh weo phe và phút tem , bà xài dư gỉa, còn có tiền gởi cho mấy đứa em của bà bên quê nhà nữa kìa . Bà nghĩ đúng là con người có số, ai ngờ bà lại được đặt chân lên đất Mỹ, được ngồi xe hơi đời mới đi đây đi đó , cái mà hầu hết mọi người trên thế giới đều mơ ước, thì bà đã có, đang có . Cũng như thằng con ông Cả Đọt đấy chỉ thích đi Mỹ , đâu phải họ nghèo nàn gì cho cam. Họ dám bỏ ra cả mấy chục ngàn đô , chỉ mong được đặt chân vào xứ cờ hoa này . Bà nghĩ lại nỗi “tủi nhục”ngày xưa, khi đứa con gái lớn của bà bỏ bê ruông đồng đi làm sở Mỹ ở Long Bình, rồi năm 1973 nó lấy anh chàng lính Mỹ GI , rồi theo chồng về Mỹ .Hàng xóm xầm xì, bỉu môi chê trách. Cái phong tục, tập quán Á Đông là như thế mà, gia đình bà hồi đó mỗi lần ra đường thật là ngượng ngập . Đến sau năm 1975 , khi các ông bộ đội dép râu tràn vào miền Nam , thì gia đình bà bị coi là kẻ thù của Cách mạng . Gia đình bà nơm nớp lo sợ . Quân đội VNCH thì bị gọi đi tập trung cải tạo, còn gia đình bà thì cũng được gọi ra văn phòng thị trấn làm kiểm điểm , khai báo tình trạng con gái mình đi lấy Mỹ , lần nào cũng được nghe câu :" Ông bà có biết là ông bà có tội rất nhớn với cách mạng không. Đã theo bọn bán nước bỏ trốn vào Nam , phản động lại còn kết...thông gia với đế quốc nữa, tội chết , nhưng cách mạng khoan hồng...", thật khổ ơi là khổ . Nhưng mấy năm sau thì lại khác , khi đất nước càng ngày càng nghèo nàn, người dân càng lúc càng đói khổ , khi ấy cứ vài tháng gia đình bà lại nhận được một thùng đồ của cô con gái lớn từ Mỹ gởi về . Mặc dù nhà nước Cộng sản đóng thuế rất nặng ,và còn cái thằng Khang , công an khu vực nữa , cứ mỗi khi có thùng đồ về là nó lại mò vào nhà lằng nhằng, khó dễ , vòi vĩnh. Vậy mà nhờ những thùng đồ đó mà gia đình bà lên hương, khá giả hẳn ra, dù sao “trong thế giới mù kẻ chột làm vua”, mọi người chung quanh có phần e dè, nể ngươi hơn, có thể vì họ muốn một điều gì đó trong thâm tâm họ, ai mà biết được . Có điều rõ ràng là khi ông Tám ôm thùng đồ Mỹ về, cái xóm nghèo nàn này ai thấy cũng thèm . Rồi năm 1988 gia đình bà được cô con gái lớn bảo lãnh qua Mỹ . Hàng xóm nôn nao, bà nhớ như in cái ngày ấy, bà con lối xóm đưa tiễn, xụt xùi . Bà cứ nghĩ ra đi lần này chắc chẳng mong gì ngày trở về . Thế mà thấm thoát đã mười mấy năm rồi xa xứ, có nhiều lúc bà nhớ nhà quay quắt , nhất là từ ngày ông Tám tự nhiên lăn đùng ra chết, bỏ bà thui thủi cô đơn trên đất khách quê ngườị. Cái tuổi già ở đây buồn khủng khiếp, buồn đến rụng rời chân taỵ. Suốt ngày chỉ biết ngồi trong nhà nhìn qua cửa kiếng như người tù. Những ngày đông giá lạnh thì ôi thôi khỏi nóị. Bà ước mong một lần về lại quê hương thăm bà con , thăm bạn bè ngày xưa mà chưa có dịp. Cách nay mấy tháng cô em gái của bà, dì Chín của xấp nhỏ có gọi phôn cho bà nói chuyện: - Chị à. Có cái mối này ngon lắm - Mối chi vậy dì, mối chi mà ngon lắm... - Số là ông Cả Đọt muốn tìm một cô gái có quốc tịch Mỹ làm đám cưới giả, đám cưới giả thôi, với con trai ông ta, để bảo lãnh cho nó qua Mỹ theo diện vợ chồng ấy mà. Em tính nói chị, cho con Út nhà chị nhận cái này đi .Tiền bạc phí tổn họ lo hết. Xong việc họ chồng cho chị 20 ngàn nữa. Ngon quá phải không chị. Bà Tám thấy cũng có lý, có dịp về thăm cố hương mà không tốn tiền nên bà đã bàn với cô Út và cô Út đã nhận lời . Bà cũng đã nhận của người ta một số tiền gọi là tiền đường , tiền máy bay về VN lo công chuyện. Bây giờ dưng không cô Út phá hoẵng. Bà chưa biết phải tính toán cách nào cho ổn đâỵ Bà thở dài thườn thượt , buồn bã ra ngồi trên chiếc sô pha thờ thẫn nhìn ra đường. Trong lòng vừa buồn , vừa lo . Bà lại nhớ tới chồng. Ông Tám ơi phải chi ông còn sống tôi đỡ nhức cái đầu . Alô, Dì Chín hả ? - Dạ, em đây … - Sao ? Dì phẻ hông ? Này , nói với dì chuyện hôm trước đó , cái con Út cháu dì nó dở chứng, nó lại không chịu nữa … - Ấy chết …Không chịu nữa ? Đâu có được hở chị . Phải cố gắng mà thuyết phục nó … - Thì tôi cũng nói hết nước, hết cái với nó mà nó cứ không chịu nữa . Khổ quá , hay dì nói lại với ông Cả là cho tôi xin lỗi . Tôi sẽ hoàn lại tiền đường cho ông Cả nha . - Em nghĩ là không được …Bà Chín im lặng một lúc ra điều suy nghĩ ,rồi nói tiếp : Chị à hay là thế này :” Chị cứ đứng ra thay con Út về làm đám cưới đị Giấy tờ hồ sơ thì cứ để tên con Út đứng . Chị đóng vai con Út để chụp hình cho có làm bằng chứng khi đi phỏng vấn ấy mà … Bà Tám nghe đến đây , tá hoả tam tinh , gắt lên trong phôn : - Trời ơi …Chuyện vậy mà dì cũng nghĩ ra được . Ai đời tôi đã hơn sáu mươi rồi …dì có nhớ không chứ . Làm như vậy hàng xóm mà biết được thì tôi có nước phải độn thổ . - Chị yên chí đi, bình tĩnh lại …, để em nói chị nghe . Sẽ không ai biết hết chỉ gia đình ta và gia đình ông Cả tham dự cái lễ…cưới bất đắc dĩ này thôi . Mọi người kín miệng ai người ngoài biết chứ … - Nhưng mà tôi già cóc khú đế rồi làm sao mà chụp chung với thằng Tèo , làm sao xứng chớ…Thôi thôi coi hổng có được đâu … - Hihihìi . Được chớ , thời buổi này người ta chụp ảnh nghệ thuật lắm chị ơi . Người ta sẽ làm trong hình chị sẽ trẻ như con gái đôi mươi , lo gì mà không xứng …Hơn nữa chị là Việt kiều mà … trẻ và đẹp sẵn rồi , đẹp hơn bọn em ở trong nước mà … - Bà Tám thở dài :” Thôi được để chị bàn lại với xấp nhỏ xem sao đã “ - Bàn cãi gì nữa . Quyết định vậy đi . Em sẽ báo lại với ông Cả . Bà Tám buông cái phôn xuống mà thẫn thờ . Bà nghe như có một luồng khí nóng chạy râm ran trong người . Thật là bất ngờ , trời đất quỉ thần ơi , ai ngờ bằng này tuổi rồi mà còn có người đề nghị làm cô dâu , dù là cô dâu giả . Bà mường tượng ra cái cảnh lễ tơ hồng , mỉm cười e thẹn y như là cách đây hơn bốn chục năm , cái ngày bà xuất giá theo về làm vợ ông Tám . Hồi hợp, lo âu, mừng vui lẫn lộn .Bà chợt thấy lòng lâng lâng khi nhớ lại cái ngày cùng ông Tám đứng trước bàn thờ gia tiên, đứng trước bà con hai họ trong bộ đồ cưới cổ truyền dân tộc . Ai cũng khen bà đẹp :” Cô dâu xinh đẹp quá, thuỳ mị quá …” . Ngày xa xưa ấy như vụt làm sống lại cái thời thanh xuân của bà ….bà muốn nhảy lên tưng tưng như ngày còn thơ bé . Như chợt nhận ra mình quá lố . Bà ngồi bệt xuống chiếc ghế bàn ăn lẩm bẩm :” Chỉ là giả thôi ! Đừng, đừng tưởng thiệt ! Đừng , đừng …” Sau bữa cơm tối hôm đó bà yêu cầu các con ngồi nán lại, và bà mang cái đề nghị của dì Chín ra bàn với họ . Ai cũng phì cười phản đối , duy chỉ có cô Út là đồng ý , vì cô muốn trút bỏ cái trách nhiệm này . - Dì Chín bàn vậy thật là tuyệt diệu . Mợ thì chả vướng bận ai . Cậu đã chẳng còn … Đứa con trai của bà thì chống đối quyết liệt : - Thôi đi nha cô . Cô không thấy chướng lắm sao ? Ai đời một bà già gần đất xa trời mà làm đám cưới với cái thằng đáng tuổi con mình . Thiên hạ sẽ bịt mũi mà cừời cái gia đình này . Thử hỏi nếu cậu còn sống , cậu có bằng lòng không ! Gia đình mình đâu có cần tiền đến nỗi như vậy . Mọi người cãi qua cãi lại một hồi rồi ai nấy cũng ngồi im. Bà Tám cũng không biết nói gì nữa . Một lúc sau , cậu con trai bà Tám mới lại hả miệng : - Thôi , chuyện này tùy mợ đi …mợ muốn làm sao thì làm … Nói xong, cậu ta bỏ về phòng . Mọi người cũng giải tán . Mỗi người mang một trắc ẩn riêng tư . Bà Tám thì lưỡng lự, nửa muốn tới, nửa muốn thụt lùi . Đêm hôm đó bà không tài nào ngủ được . Bà bị giằng co giữa cái háo hức chợt bừng lên của thời son trẻ và sợ cái miệng đời cay chua phê phán bây giờ . Nhưng cuối cùng, một thoáng mùa xuân đã mạnh hơn, thổi qua lòng bà một luồng gió mát , xua tan đi những lo lắng chốn thị phi .Bà quyết định :” Cứ thử làm như dì nó đề nghi . Cứ làm đâu chết ai “. Sáng sớm hôm sau, bà thắp nhang trước bàn thờ ông Tám , thành khẩn :” Anh Tám à ,lâu rồi ,dễ thường cả vài chục năm rồi hôm nay bà mới lại gọi ông Tám bằng tiếng Anh thân thương , em thắp nén nhang thưa anh một chuyện, là …em, em …, em sẽ về VN làm một cái đám cưới giả …cho em . Chỉ là giả thôi anh à . Anh đồng ý chứ . Đấy lại xụ cái mặt…ghen như ngày xưa hả , sao em không hình dung ra được nụ cười đôn hậu của anh vậy . Là giả thôi …, em xin anh .” Ba cây nhang trên bàn thờ ông Tám dưng không mà tắt ngấm. Những sợi khói cũng tan loãng trong căn nhà . Bà Tám rùng mình, bà có cảm tưởng căn nhà bữa nay lạnh lẽo hơn mọi ngày . Trứơc tết một tháng , bà Tám đã về tới Việt Nam , để chuẩn bị đám cưới như đã dự định. Ra sân bay đón bà có ông Cả Đọt và gia đình người em gái thứ chín của bà . Xa Saì Gòn lâu rồi , hôm nay trở lại mới thấy cái nắng của Sai Gòn nó gay gắt chừng nào . Bên Mỹ đang là mùa đông, lạnh thấu da , thấu tuỷ , nên bà Tám đã mặc hai ba lớp vừa quần, vừa áo, còn khoác thêm cái áo ấm da nữa, nên khi đứng chờ làm thủ tục hải quan tại phi trường Tân Sơn Nhất, thì mồ hôi con, mồ hôi mẹ toát ra, chảy tong tong trên khuôn mặt, làm nhạt nhòa cái công tô điểm rất kỹ lưỡng của bà ., mà suốt cuộc hành trình gần ba chục tiếng đồng hồ bà không dám rửa mặt, không dám đánh răng , không dám cả ngủ ( mà thật ra bà làm sao ngủ được, khi lòng nôn nao và háo hức), bà chỉ sợ cái dấu già , nó lộ liễu khoe ra trước mặt mọi người .Bà đưa khăn tay lên mặt chậm những giọt mồ hôi : - Gớm không biết họ làn ăn cái gì mà lâu thế . Đứng xếp hàng mỏi cả chân . Có biết là nóng nực quá không mấy cha nội . Vài người thở dài :” Bây giờ là cũng đỡ rồi đấy bà chị ạ, chứ cứ như mấy năm trước hở, còn chờ cả buổi, nhất là mấy ông bà Việt kiều keo kiết …, cũng làm mất thì giờ của mình nhiều lắm . “ Cái nóng , và nhất là hai ngày nay không tắm , đã làm cho bà Tám cảm thấy ngứa ngáy, khó chịu . Bà chỉ mong có thể chạy ngay về nhà , cởi bớt quần áo ra, gãi cho nó đã , nhưng đành chịu, “ mưu sự tại mình nhưng thành sự còn do công an cửa khẩu “ . Bà chỉ còn có nước đứng vặn vẹo người cho đỡ ngứa , chứ chả lẽ lại đưa tay vào trong mấy lớp vải mà gãi , ai coi cho được . Cuối cùng rồi cũng thông, tới phiên bà, bà đã kẹp tờ giấy năm đồng trong cuốn sổ thông hành , nên thủ tục được giải quyết khá nhanh . Gớm lại còn cái cảnh khám hành lý nữa, may là các con bà không cho bà mang đồ đạc lỉnh kỉnh về vì lo bà không khuân vác nổi , nên bà cũng nhẹ nhàng để bước ra khỏi cái lò hâm hấp nóng này . Bà đang ngơ ngác nhìn trời Sài Gòn , nhìn đám đông đứng chờ thân nhân , giống như họ đi biểu tình, bị hàng rào cảnh sát chận lại ngoài kia, thì nghe có tiếng la lớn: - Chị Tám ơi , đây này , em đứng đây này . Bà chợt nhận ra đứa em gái của mình sau bao năm xa cách . “ Sao mà nó đen đủi thế. Tội nghiệp em tôi , cũng may là còn có da, có thịt , chứ nếu không thì, chắc chị chẳng nhận ra đâu .”Bà đi nhanh về phía bà Chín, tươi cười nói : - Nóng quá đi! Hai chị em ôm nhau , mừng mừng, tủi tủi . Bà Tám vừa cười toe toét giờ lại xụt xùi : - Chị nhớ các em, các cháu quá - Đừng khóc chị à . Chị về được là mừng rồi, còn nhiều cái mừng khác nữa, cười lên đi chị . À mà các cháu đâu, không có đứa nào về à ? - Chả đứa nào chịu về cả dì ơi . Bà hạ thấp giọng . “ Chúng nó phản đối dữ quá !” Chị em hàn huyên quên cả ông Cả Đọt. Ông đứng ngây người ra , thừa thãi . Ông ngập ngừng một lúc mới lên tiếng :” Này chi Chín, mình đưa chị Tám về nha đi, đứng đây nắng chang chang …” - Xin lỗi ông anh . Chị à , đây là anh Cả đấy, ba của cháu Tèo . - Chào ông . ông mạnh giỏi ạ ? - Cám ơn chị . Thôi ta lên xe đi . Chiếc xe lao đi qua những dãy phố đông nghẹt xe cộ và người . Xe cộ và người đủ loại chảy đi như thác . Sài Gòn là thành phố có nhiều xe nhất thế giới , bà Tám nhìn họ tranh nhau lao đi trên đường mà chóng mặt . Về đến nhà, bà Tám thấy cái xóm Bến Gỗ này thật không thể nào nhận ra được, nó thay đổi quá nhiều rồi . - Bà con trúng đất chị ạ. Đất giờ không cày cấy nữa ,có giá nên người ta xén bán . Bạc tỉ không đấy chị . Xóm mình giờ thiếu gì tỉ phú . Tỉ phú là chuyện nhỏ . Bà Tám nghĩ cũng mừng cho bà con , đã thoát ra khỏi cảnh cơ cực ngày xưa : - À này , Anh Cả ơi , sao không thấy cậu Tèo ra phi trường nhỉ . - Ủa, bộ chi Chín không nói gì với chi sao ? Số là chúng tôi bàn với nhau , dấu cháu cái kế hoạch thay đổi này, để đến lúc nước đến chân, chuyện đã rồi …nó không kịp nhảy nai nữa . Bà Tám nghe ngượng ngùng, thì ra đâu chỉ có bà lo cái chuyện này đâu . Bà Tám đang vui bỗng buồn áy náy : - Thôi cho tôi xin phép vào trong thay cái áo đã . - Vâng thôi để chị tự nhiên . Tôi cũng xin phép , tôi về. Tối gặp lại sau . Ông Cả về rồi, bà Tám vội vàng chạy vào phòng tắm , tắm một thôi, một hồi . Tắm không còn muốn bước ra nữa . Bà vừa tắm vừa mơ màng ngày mai bắt con gái dì Chín đưa đi thành phố căng da mặt, tắm bùn, tẩy vết tàn nhang …nói chung là mọi cách làm đẹp . Cái món này mà ở Mỹ thì mắc lắm , bà tiếc tiền , tiếc của chả đời nào dám mơ tưởng tới . Bà mỉm cười đúng là tiện lợi , một công đôi ba chuyện . Bà hát nho nhỏ :” Khi xưa ta bé ta chơi , ta bắn dây thung …” . Bà soi gương chải lại mái tóc vừa được xấy khô . Những vết nhăn lại hiện rõ trên khuôn mặt, trên khóe mắt, trên mép cười . Bà lại chợt buồn thiu khi nghĩ tới cái “già” nó ập tới nhanh quá. Già thật rồi . saú ba, sáu bốn rồi còn gì . Bà lững thững bứơc ra phòng khách , lại thấy nóng rồi , lại muốn vô tắm nữa rồi . Quái , hồi xưa mình ở nhà đâu có thấy vậy chớ . Thật rõ là nhiêu khê . - Chắc em không ngờ chị lại về sớm như vậy phải không ? Đố em biết tại sao đấy ? Dì Chín cười tủm tỉm, đưa mắt đá long nheo chị mình : - “ Em đi guốc trong bụng chị, em vẫn là người hiểu chị nhất từ xưa tới nay mà … Còn dám đố em …” Hai chị em phá ra cười như nắc nẻ - Đồ qủi sứ, cái dì này... - Mọi người đã chuẩn bị xong chưa ? Dì Chín chạy lăng xăng như gà mắc đẻ, luýnh quýnh lau cái lư hương trên bàn thờ tổ tiên, miệng hối dục liên tu ti : - Này thằng Tư đâu rồi, treo cái bảng chữ “ VU QUI “ lại cho ngay ngắn . Bên nhà trai người ta sắp tới bây giờ . Đã mười giờ hơn rồi đấy . Chị Tám chuẩn bị xong chưa vậy ? Bà Tám tằng hắng lấy giọng, vì mấy bữa nay bà hung hắng ho : - Có gì đâu mà chuẩn bị . Mặc bộ đồ vô là xong … - Í trời …, Cô dâu về nhà chồng mà bảo là không có gì phải chuẩn bị , thiệt kỳ cục . - Giả thôi mà , chủ yếu để chụp hình … - Ai mà chả biết thế, nhưng cũng phải dàn cảnh y như thiệt thì mới được chứ . Dạo này phái đoàn phỏng vấn khó khăn lắm à nhe . Họ mà nghi ngờ một cái hả , là đi đoong đó . - Vậy dì bảo chị phải làm sao đây . - Thì mặc đồ và trang điểm xong thì ngồi yên ở trong phòng khi nào em vào dẫn ra mới được ra , đừng chạy loạn đó , kẻo lên hình lại như là …,dấu đầu , hở đuôi . - Thôi được . Cô em bà Tám coi bộ còn rành rẽ hơn chị về những tập tục cưới hỏi , hay, bà Tám vì là cái ngày trọng đại thứ hai trong đời nên bà đã quên hết cả . - Mấy đứa kia sao chưa thay đồ thay đạc gì hết vậy bay ? Mấy đứa con của bà Chín lu bu kê bàn kê ghế, treo hoa kết đèn từ sáng đến giờ, đâu đã có thì giờ rảnh để lên đồ . Có tiếng xe nổ xình xịch ở ngoài ngõ . Bà Chín hốt hoảng chạy ra, hé cánh cửa nhìn ra ngoài . Cánh cửa đóng im lìm từ sáng , vì không muốn cho người ngoài để ý : - Trời đất, nhà trai tới rồi bay ơi . Đã bảo làm âm thầm thôi mà anh Cả bày đặt chi xe hơi, rồi lại còn cả đám xe hai bánh nữa . Thiệt tình , thiên hạ biết hết rồi còn chi . Khách nhà trai xuống xe, xếp hàng : đi đầu là Ông Cả trong bộ côm lê màu xanh nhạt, kế theo là thằng Tèo với bộ com lê trắng , ôm một bó hoa trên tay , anh chàng trông có vẻ tươi rói, trông cứ thưỡn thườn thượt như là chú rể thiệt … Nhà trai tiến vào trong khi Bà Chín đại diện nhà gái mở cửa ra đón tiếp . Vài câu xã giao làm quà, mọi người bước vào trong nhà, cánh cửa lại được cẩn thận khép lại . Bác phó nháy thì làm việc liên tục, nháy lia nháy lịa . - Thưa họ nhà trai … Ông Cả ngắt lời : - Thôi Chị Chín à . Mình làm cho có lệ , đâu cần dài dòng văn tự làm chi . Xin chi đưa cô dâu ra , cho họ thắp nhang bàn thờ, trao nhẫn cho nhau . Rồi tôi đeo dây chuyền, bông tai, sính lễ cho cô dâu , rồi chụp hình , thế thôi cho gọn . Chị Chín vào trong phòng dắt cô dâu ra . Y như cô dâu thiệt , Bà Tám tha thướt trong bộ đồ đầm màu hồng , chiếc voan phủ che khuôn mặt, trông không kém phần duyên dáng . Mọi người đều hớn hở vỗ tay đón chào tân giai nhân . Thằng Tèo từ nãy tới giờ nóng ruột , dù là giả thôi nhưng nó cũng mong xem cô Út trong bộ đồ cưới đẹp như thế nào . Khi nó nhìn thấy bà Tám từ cửa phòng bước ra, nó chưng hửng , há hốc mồm, vài phút sau nó mới định thần . Nó thụt lùi trở lại, nó quay qua bên phải, nó quay qua bên trái như cầu cứu, như tìm đường thoát thân . Nó bước lên gần Ông Cả nói nhỏ : - Ba à, Ba cầm giùm con bó hoa một chút , con đi vệ sinh … - Sao mày lại mắc …tè vào giờ này hở con ? - Tại hồi ở nhà con uống bia nhiều quá …Con ra ngay mà . - Đưa hoa đây . Nhanh lên nghe mầy . Thằng Tèo rón rén lách qua đám người, xuống nhà saụ. Mọi người chờ mãi, gần cả tiếng đồng hồ mà thằng Tèo vẫn chưa trở lại . Ông Cả cho người vào nhà vệ sinh tìm kiếm nhưng vẫn chẳng thấy bóng dáng chú rể đâu .Bà Chín thở dài thườn thượt : - Thôi chết rồi . Bây giờ làm sao đây ? Bà Tám thì biết chắc là cu cậu bỏ của chạy lấy người rồi . Bà cảm thấy tủi thân quá , bà nhớ lại cái cảnh đau khổ của cô dâu đứng chờ vị hôn phu của mình nơi giáo đường, chờ mãi mà chàng không đến, trong tập phim Hồng Kông nào đó mà bà đã coi . Bà cũng muốn bỏ chạy vào phòng , nằm úp mặt trên gối mà khóc , nhưng lại ngại , đâu thể trẻ con như vậy được . Bà Chín kéo Ông Cả ra một chỗ, thì thầm : “ Anh Cả à , anh thay cho thằng Tèo đi . Anh đang cầm bó hoa đó , lại trao cho cô dâu , rồi tiến hành nghi lễ hợp hôn để còn chụp hình “. “ Nhưng hình tôi đâu có phải hình thằng Tèọ” “ Anh đừng lo người ta dùng máy vi tính, ngắt cái đầu của anh ra, gắn cái đầu thằng Tèo vô hình thế là xong . “. Ông cả nghĩ cũng phải làm như vậy thôi , đâu còn cách nào khác . Ông ôm bó hoa tiến lại phía cô dâu , tươi cười trao hoa , và ôm cô dâu hôn phớt nhẹ trên má, phó nháy chụp hình . Bà Tám, cô dâu, sau một giây ngỡ ngàng, đỏ hồng đôi má, bà nhắm đôi mắt lại như một thoáng chìm trong đê mê . Bà Chín thắp ba nén nhang , rồi trao cho cô dâu, chú rể vái lạy trước bàn thờ Tổ Tiên . Đến lượt hai người trao nhẫn cưới . Bà Tám thật sự run quá, xỏ mãi mấy lần cái nhẫn cưới mới lọt trong ngón tay Ông Cả . Mọi động tác đều được bác phó nhòm ghi hình đầy đủ . Đến lượt chụp hình chung gia đình . Bà Tám giờ lại cảm thấy thẹn thùng , nên đứng xa Ông Cả cả thước . Bác chụp hình phải kéo bà gần lại và nói với Ông Cả , ôm eo bà, bà ngã đầu trên vai Ông Cả . Máy ảnh đã choá đèn một lúc lâu rồi mà bà vẫn còn đứng im trong tư thế tình tứ đó . Cô em gái của bà, tủm tỉm cười, nói khẽ bên tai bà “ chụp hình xong rồi chị à “ . Bà mới giật mình , e thẹn chạy vô phòng . Đám cưới cử hành thật đơn giản , và mọi việc coi như cũng ổn thoả . Trong lúc mọi người vừa thở ào nhẹ nhõm thì thình lình có tiếng gọi cửa . Bà Chín chạy ra . Cô Thu , em gái Ông Cả, xuất hiện mặt hầm hầm : - Anh Cả đâu, anh Cả đâu ? Mọi người đều im lặng nhìn ra cửa . Ông Cả tiến lại phía cô Thu : - Có chuyện gì vậy cô ? - Còn chuyện gì nữa . Chuyện anh tục huyền, trọng đại như vậy mà anh giấu hết họ hàng . Anh nghĩ coi có được không ? Ông Cả sợ lộ sự mưư toan của mình nên nhỏ nhẹ , ôn tồn : - Thì … cũng già rồi, không muốn rình rang , nên giấu hết mọi người cô à . Cô thông cảm cho anh mà . Đừng la lớn, hàng xóm mà kéo đến đây, người ta cười chết . Bà Tám nằm trong phòng lắng nghe “diễn biến hoà bình” ở bên ngoài, kệ cứ để cho người ta hiểu lầm thì đã chết thằng Tây nào . Bà rờ trên má, cảm giác của nụ hôn vẫn còn chạy râm ran trong người . Bà dụi mặt vào chiếc gối : “Anh Cả , già rồi mà còn điệu ghê , làm mình mắc cỡ thí mồ hà”. truyen ngan nhom lamtruyen.com Bản quyền thuộc về lamtruyen.com.

truyen sex hay Sống Dễ Lắm

Truyện ngắn Sống Dễ Lắm Tác giả: Nguyễn Huy Thiệp Trường Sư phạm tỉnh miền núi mở lớp tập huấn cho giáo viên vùng cao vào cuối tháng 7. Có 11 người và họ đều là những giáo sinh trẻ lần đầu đi dạy học. Bạn đọc ở đô thị chắc hiểu ít về các trường học vùng cao cách đây ba, bốn mươi năm.Tôi chỉ có thể nói với bạn rằng không ở đâu buồn tẻ hơn và ít vụ lợi hơn ở đấy, còn việc hình dung và dành tình cảm cho nó ra sao tuỳ bạn. Cuối tháng 7, ở Tây Bắc mưa nhiều và những đợt lũ quét bất ngờ có thể gây nên những tai hoạ không thể lường trước được. Người ta cử ông giáo Chi mang những tài liệu sách vở đến giảng cho lớp tập huấn nhưng trên đường từ tỉnh lị về trường, khi qua suối, ông giáo Chi bị nước cuốn sạch đồ đạc. Mười một giáo sinh ra đón ngài thanh tra giáo dục, họ nửa khóc nửa cười khi thấy một ông già gày gò, mình trần thân trụi ướt như chuột lột đang ngồi rét run cầm cập. Tất cả những nghi lễ và dự định cho lớp tập huấn giáo dục bỗng vứt đi hết vì lí do bất ngờ, những qui định ứng xử giữa ông giáo Chi và đám trẻ bỗng xoay ra hướng khác hẳn. Ông giáo Chi được các cô con gái thân mật gọi là " bố " mặc dầu ông nửa đùa nửa thật nói rằng mình thích được coi là " bạn thân " hoặc " anh giai " hơn. Các cô con gái trổ tài may vá và ông giáo Chi lập tức có ngay hai bộ quần áo được " cải tạo " từ đám quần áo cũ của họ. Hai cậu con trai không tỏ ý thân thiện gì với " bố ", dưới mắt họ ngài thanh tra giáo dục " xuống cấp ", trở thành một tay dấm dớ chẳng ra gì. Tuy nhiên, đúng ngày đúng giờ, lớp tập huấn giáo dục vẫn được bắt đầu như thường lệ, y như qui định của Bộ giáo dục tận mãi Thủ đô. Ông giáo Chi vốn xuất thân là lính, ông coi nhiệm vụ trên hết và không có gì ngăn cản ông làm nhiệm vụ được giao. Không có giấy bút gì, ông giáo Chi đĩnh đạc đứng lên bục giảng có các cô con gái vây quanh, hai cậu con trai bất đắc dĩ phải ngồi cùng, không phải vì nể ông giáo mà vì nể các cô con gái. - Dạy học là nghề sống dễ lắm ! - Ông giáo Chi bắt đầu bài giảng của mình. - Nếu lương ít, lại không có thực phẩm thì làm sao ? Ở các vùng cao lấy đâu ra chợ ? - Các cô giáo trẻ lần đầu sống xa nhà lo lắng hỏi ông. - Phải trồng rau chứ ! - ông giáo Chi trả lời. Nuôi lấy vài con gà... Ngày xưa, tớ (ông giáo Chi xưng " tớ " chứ không xưng " bố ")... tớ nuôi cả lợn. Chiều ba mươi Tết thịt lợn, đánh tiết canh... thật không có gì vui như thế... vui như Tết ! - Tất cả là do tự nhiên điều chỉnh hết ! - ông giáo Chi nói - Mình cứ sống thôi ! Sống dễ lắm ! Cứ nhìn vào mắt bọn trẻ con mà sống...Cũng cần phải biết một ít kĩ năng, như cách thiến gà... Phải biết một số cây thuốc cầm máu, biết phân biệt các thứ nấm độc...Tớ có kinh nghiệm không nên tin cái gì đẹp đẽ quá... Ông giáo Chi đưa bọn trẻ vào rừng, ông chỉ cho họ cách tìm các cây rau ăn được, các cây thuốc, cách tìm phương hướng khi lạc rừng nhờ vào việc xác định rễ ở các gốc cây. Buổi tối, họ ngồi tập hát, ông giáo Chi dạy họ bài hát về nghề dạy học : " Tôi không quên những giờ lên lớp đầu tiên Khi bước về ngôi trường xa Trang sách trắng tinh Với nét phấn đơn sơ vụng về đừng hỏi vì sao tôi yêu dấu... " - Dạy học không có gì khó cả ! Sống dễ lắm ! - Ông giáo Chi lại nói - Mình cứ hình dung mình là đứa bé, đứa bé cần gì thì dạy thứ ấy... đừng dạy nó thứ không cần... - Sống dễ lắm ! - Ông giáo Chi lại nói - Giáo dục... nghĩa là tha bổng... Hễ có tội là tha... trẻ con không có tội gì... Sống nghĩa là sai lầm, là mắc tội... Mình phải yêu mạng sống của chúng như yêu mạng sống của mình... - Thế còn tình yêu ? - Những cô gái trẻ náo nức hỏi. - Tớ không biết... - ông giáo Chi lúng túng trả lời - Nhưng có sự hi sinh... nghĩa là cay đắng...Tình yêu là mang cho nhau lời nguyện cầu tốt đẹp, những cử chỉ thân tình âu yếm, dục vọng, lòng ham sống... tóm lại là cảm giác... - Nói dối ! - Một trong hai cậu con trai sầm mặt lại, chửi thề rồi nói khẽ qua kẽ răng. Đấy là Dân, tay thanh niên sinh ra ở thành phố - Nó hơn thế nhiều... - Cậu thì bao giờ cũng coi cậu đúng còn mọi người là dối trá hết ! - Ông giáo Chi buồn bã nói - Cậu không dạy học được.Cậu chỉ đi chiếm đoạt và áp chế người...Cậu giống " sếp " của tôi. - Để xem - Anh chàng Dân trả lời - Nhưng dạy học đâu có phải là nghề tốt nhất trên đời phải không ? - Tớ không biết ! - Ông giáo Chi thừa nhận - Có lẽ thế thật ! - Nhưng chúng ta đang nói chuyện về tình yêu cơ mà ? - Các cô giáo trẻ vẫn không bằng lòng với cách giải thích của ông giáo Chi. - Hỏi làm gì ? Rồi trước sau ai cũng biết hết... - Cậu con trai tên là Hiếu bẽn lẽn chen vào. Khác với Dân, anh chàng Hiếu là một thanh niên nông thôn rụt rè. - Đúng đấy ! Trước sau gì ai cũng biết hết... Rồi sẽ được ăn đòn cả thôi ! Đừng có vội ! Đừng có sốt ruột ! - Anh chàng Dân nói xong thì cười nửa miệng. Các cô gái trẻ đòi ông giáo Chi kể về tình yêu. Ông giáo Chi từ chối mãi không được, cuối cùng ông đành nói : - Có lẽ tớ đã yêu rất sớm... - Ông giáo Chi đỏ mặt thú nhận - Từ khi tớ còn là học trò...Mà người tớ yêu lại là cô giáo. Cô giáo đi vào lớp, tớ ngắm nghía như muốn nuốt chửng cô ta. Sau này tớ rất xấu hổ, rất ân hận... Hai cậu con trai tỏ vẻ khinh bỉ đứng lên bỏ ra khỏi lớp. Ông giáo Chi ngồi im. Ông biết ông đã dại dột nói ra điều không nên nói. Ông là một nhà giáo dục thất bại. Các cô gái an ủi ông : - Bố lại bịa, phải không ? Sao bố lại đi bịa như thế để cho người ta coi thường bố ? Chúng con biết bố có một tình yêu cao thượng, có phải không ? - Ừ ừ... - Ông giáo Chi trả lời - Cao thượng... riêng tư... nhưng tớ có lỗi... tớ ích kỉ... mà lại hèn...Cô ấy là người rất kiên nhẫn mà cuối cùng cũng phải chán tớ. - Cũng tại bọn đàn bà hay đòi hỏi cơ ! - Các cô gái than thở - Người ta vẫn nói đàn bà với tiểu nhân là một... - Không phải thế đâu... - Ông giáo Chi cười đau đớn - Đấy là Khổng Tử. Ông ấy là tay say mê chính trị, hắn không có tình yêu, hắn yêu lễ hơn cả tình yêu... mà tình yêu là thứ vô lễ nhất. Tình yêu rốt ráo thậm chí còn là vô luân... - Thế cũng phải dạy cho bọn trẻ con những điều như thế phải không ? - Các cô gái lại hỏi. - Phải dạy chứ ! - Ông giáo Chi nói - Nhưng tốt nhất cứ để tự nhiên điều chỉnh là hơn... Sống dễ lắm ! Cứ nhìn vào mắt bọn trẻ con mà sống.Có điều phải trung thành với công việc... Đừng có như hai thằng trời đánh kia ! Tớ thề rằng chúng nó sẽ phản bội nghề dạy học. Cô nào yêu chúng rồi sẽ đau khổ... Chúng nó thì có dạy ai ?Bọn đàn ông, tớ biết rất rõ... Một phần cũng bởi tại giới nữ các cô kích động nữa cơ, chúng nó là bọn láo khoét, không có phúc đức gì đâu... " Phúc đức tại mẫu ", đã hiểu chưa ? Không hiểu thì rồi sẽ hiểu. Trong lớp học có Mạ là cô gái mà ông giáo Chi yêu mến nhất. Cô gái nhà nghèo, bỏ quê lên vùng cao dạy học, lúc nào cũng nhường nhịn mọi người, lúc nào cũng tranh làm những việc nặng. Mạ ít tuổi nhất lớp nhưng cô lại có vẻ đàn chị nhất lớp. Sớm mồ côi, phải nuôi hai em nhỏ nên Mạ sớm tháo vát hơn người. - Con ạ... Sao mày cứ đi làm tranh việc của người khác như thế ? - Ông giáo Chi hỏi cô. - Con không biết... tại số con nó thế... - Thôi cũng được... - Ông giáo Chi ngậm ngùi thở dài - Nhưng cũng phải thương lấy thân mình.Thương người là rồi rước hoạ vào thân... Cứ như thế, từng ngày một, trong nửa tháng trời ông giáo Chi truyền cho đám giáo sinh trẻ những kinh nghiệm, những nguyên tắc sơ khai về giáo dục theo cách của ông. Ông đã từng sống một mình trong gian khó, phải đấu tranh với cái đói, sự hiểm nguy. Ông là giáo viên tiểu học, một viên chức thấp nhất trong ngành giáo dục, ông rất dễ bị tổn thương, rất dễ bị người khác sỉ nhục hoặc coi thường, ông nói ra những kinh nghiệm của ông để bảo vệ thân phận, bảo vệ miếng ăn cũng như nhân cách của ông. Đơn giản mà kiên quyết, không có chút gì khoa trương và khoan nhượng hết. - Không nên tin ai ! Sống dễ lắm ! Trong gian khó mà tin người là chết ! Tất cả mọi người có khả năng phản bội, kể cả phản bội những đức tính cao quí nhất, vì thế mới có cái chết chứ... Chỉ có một sự bất tử duy nhất là huyền thoại... trong huyền thoại thì tình yêu là thứ huyền thoại vĩ đại và cay đắng nhất... Khi lớp học tan thì mọi người đã thân thiết với nhau lắm, thậm chí anh chàng Dân còn khoe rằng đã hôn được tất cả các cô gái ở trong lớp học. Họ ghi vào sổ tay của nhau những lời chúc tụng tốt đẹp, những bài thơ... Các cô con gái chép cho nhau cả những bài hát để khi về trường dạy lũ trẻ con... Rồi khóc lóc... Rồi chia tay... Rồi tiễn nhau ra bờ suối. những cánh chim bay đi. Vùng cao xa mờ trong mây núi. Các thày cô giáo trẻ tuổi bịn rịn lên đường, vừa háo hức, vừa sợ hãi, cả vui với buồn lẫn lộn. Ông giáo Chi lội suối trở lại tỉnh lị báo cáo với trên về việc mở lớp " tập huấn " của mình. - Không có tài liệu ! Không có sách vở ! Không có chương trình ! Mình trần thân trụi ! Thế ông làm những trò gì cho những giáo sinh ở vùng cao ấy ? - Người ta hỏi ông. - Tôi nhen lửa... nghĩa là thổi vào lòng họ vài ngọn gió... Tôi bảo họ sống dễ lắm ! Chỉ có thế thôi ! Người ta cười phá lên : - Ngọn gió ! Thật là đồ ngu ! Đồ dối trá ! Sống dễ lắm ! Ông đã làm hỏng toàn bộ phương pháp. Rồi ông sẽ biết thế nào là sống dễ lắm ! Ông giáo Chi bị cách chức, bị chuyển đi làm việc khác. Người ta bảo ông : - Mắt xích giáo dục, ông già ạ, trong chuỗi mắt xích giáo dục thì ông đã làm cho mắt xích vùng cao mất toi, chẳng ra cái gì... Ông giáo Chi ngậm ngùi xếp đồ đạc vào chiếc ba lô bạc màu ngày trước của ông. Người lính già cảm thấy lòng mình tan nát. Ông đành thôi việc về quê. Sống dễ lắm chẳng phải là một câu nói đùa cửa miệng cho vui sao ? Vùng cao xa xôi trong ông chỉ còn mơ hồ là những đám mây trắng trong dãy núi xa xôi, tiếng cười vô tư lự của đám giáo sinh trẻ tuổi, hình ảnh cô bé Mạ năm nào, cái cô giáo cấp một chịu thương chịu khó có thân hình gầy gò bé nhỏ trông chẳng khác gì một đứa trẻ chăn trâu ở trong xóm núi... Ba mươi năm sau, ông giáo Chi khi ấy đã thành một ông lão quá tuổi " thất thập cổ lai hi " chỉ loanh quanh nơi vườn nhà. Một hôm ông có khách, khách là hai mẹ con nhà kia từ nơi xa xôi đến chơi. Chưa bao giờ ông vui như thế : cô giáo Mạ ngày nào đưa con gái về thành phố đi thi đại học ghé lại thăm thày giáo cũ. Ông giáo Chi cười không thành tiếng : - Thế nào ? Vẫn còn nhớ ta ư con ? Sống dễ hay khó hả con ? Cô giáo Mạ vừa lôi trong túi xách ra những gói quà đặt lên mặt bàn vừa cười : - Kể cũng thất điên bát đảo nhưng xét cho cùng thì sống dễ lắm ! Bố có nhớ không ? Lớp học ngày ấy có 11 người... chết mất một nửa rồi... Ông Dân bây giờ lên chức to lắm nhưng không còn làm trong ngành giáo dục. Ông Hiếu nghiện nặng, nghiện thuốc phiện, bị đuổi khỏi ngành vì đi sàm sỡ với cả học trò... - Tớ biết ngay mà ! - Ông giáo Chi than thở - Thằng Dân tham vọng quá, nghề dạy học là nghề quá bé nhỏ với nó. Những tên lưu manh bao giờ cũng phải khua khoắng ở nơi đất rộng có người chen chúc. Thằng Hiếu thì tình cảm quá, không thắng được những bản năng...Chà ! Lũ đàn ông ! Thày bậy thày bạ ! Phúc đức gì lũ chúng mày ! Ông giáo Chi khổ sở, bận rộn với những ý nghĩ trong đầu y như trước mặt ông đang có 11 đứa con giống như ở trên lớp học vùng cao ngày nào.Ông mỉm cười với người học trò mà ông yêu mến nhất, đứa con gái trung thành của ông : - Hãy kể chuyện đi, con gái... Sống dễ là như thế nào ? - Cũng đói... Cũng rét... Cũng khổ đủ đường nhưng rồi cứ nhìn vào mắt bọn trẻ con mà sống... - Thế những đứa khác thế nào ? - Cũng thế...Bố còn nhớ con bé Thảo không ? - Cái con bé trắng trẻo, vẫn hay nói lắp chứ gì ? - Đúng rồi ! Nó yêu ông Dân...Tình yêu đơn phương... Nó bỏ vào rừng, nó cứ đi mãi, nó sa vào tổ ong đất rồi chết. Chỗ ấy mặt đất rất sạch, lại rất phẳng phiu, bên trên không có một ngọn cỏ nào... Cái hố toàn ong là ong sâu hơn bốn mét... - Khổ ! đã bảo không được tin vào cái gì sạch sẽ cơ mà ! - Ông giáo Chi rên rỉ, nước mắt ròng ròng - Cái con bé xinh thế ! Thật tội nghiệp ! Thế bây giờ mộ nó ở đâu ? - Vẫn ở trên ấy, bố ạ... Bố còn nhớ dãy núi Đầu Hổ không ? Nó nằm ở đấy 30 năm rồi... - Thế những đứa khác thế nào ? Cô giáo Mạ ngồi im một lát như muốn nhớ lại từng người bạn cũ ngày xưa, cô nói : - Được cái không ai bỏ nghề dạy học... Nhưng hễ đứa nào dính đến yêu đương là chết... Khổ thế đấy ! Đứa nào an phận thủ thường thì cũng vung vinh hơn người... - Ta đã bảo mà ! - Ông giáo Chi gật đầu - Cứ để cho tự nhiên điều chỉnh là hơn ! Cứ mơ mộng hão huyền là chết... Đừng có lãng mạn viển vông gì cả... Thế còn con ? Con gái của con năm nay thi vào đại học ? Thế bố nó đâu ? Bố nó làm gì ? Cô giáo Mạ đưa mắt nhìn cô con gái.Cô con gái biết ý bẽn lẽn đi ra ngoài sân. - Bố nó ngày xưa cũng là thanh tra giáo dục - Cô giáo Mạ thì thào - Anh ấy đi về trường con có mỗi một lần... cũng y như bố, buồn cười, mình trần thân trụi... Ông giáo Chi cảm thấy nghẹt thở, nước mắt chảy ra ràn rụa. Ông cười không thành tiếng : - Ừ... Vậy nó là thanh tra giáo dục...Thế nó nói gì ? - Không nói gì cả... - Thằng ông mãnh ! Thế là nó khôn... - Được cái thật thà...Mà khoẻ lắm ! Cứ như lực điền... - Đúng rồi...Tất cả là ở cảm giác... - Hồi ấy mùa thu...Hoa cúc nở vàng như mê như man trong thung lũng. Mật ong thì nhiều vô kể... Lũ học trò mang đến cho con bao nhiêu là hoa với mật ong... - Ừ ừ... ta hiểu... Thế cũng xơi chứ ? - Vâng... Ăn tham không tưởng tượng được. Toàn mật ong rừng thuộc loại ác chiến... - Có phải nó đặc sánh mà lại vàng như ánh nắng ở dưới mặt trời phải không ? - Vâng... vàng như hổ phách... Mà trong suốt. Cô giáo Mạ ngồi lặng im một lát không nói năng gì. Mãi lúc sau ông giáo Chi mới húng hắng ho. Ông nói nho nhỏ : - Ở vùng cao ấy, con ạ, không khí rất sạch, rất tốt cho trẻ con đấy ! Cô giáo Mạ như bừng chợt tỉnh, mỉm cười : - Vâng... được cái không khí thì sạch lắm. Hồi đẻ con bé, con tự làm lấy hết... tự cắt rốn cho nó, tự may vá lấy... - Thế lúc ấy không có ai à ? - Không có ai... May mà cũng không nhiễm trùng... Hôm ấy trời mưa rất to... Ông giáo Chi đỡ lấy chén nước mà cô giáo Mạ vừa rót cho ông, ông nói : - Con bé của con xinh lắm ? Thế nó ngoan chứ ? Có hiếu chứ ? - Vâng... Được cái cháu nó cũng ngoan, cũng biết thương mẹ. Con nghĩ thi được đại học thì thi, không được thì thôi... - Ừ... phải nói với nó là sống dễ lắm... đừng làm nó sợ... - Con hiểu... - Cô giáo Mạ tần ngần nhìn ông giáo Chi, tự dưng nước mắt ứa ra - Bố già rồi... Thế bố có còn nhớ gì về những nơi ở ngày xưa của bố hay không ? Ông giáo Chi gật đầu, ông nói rất khẽ cứ như là ông tự nói để cho mình nghe : - Có... nhớ chứ ! Toàn núi là núi nhỉ ? Mà toàn núi xanh mây trắng... Một lúc sau, hai mẹ con cô giáo Mạ từ biệt ông giáo Chi để trở về nhà, trở về trường học cũ của họ. Giống như ngày xưa : lại nước mắt, những lời li biệt... Ông giáo Chi tiễn người học trò rồi mà cứ thẫn thờ tần ngần đến suốt mấy tiếng đồng hồ. Hôm sau, hôm sau nữa ông cứ lơ lửng như người mất hồn. Nhiều lúc, ông giáo Chi bỗng thấy người mình tựa như nhẹ bỗng, nhẹ đến nỗi tưởng như có thể bay lên được kia ! Chao ôi ! Ước gì ông có thể bay lên trời được ! Như những ngọn gió ! Nếu bay lên được thì ông sẽ bay đến những dãy núi xanh xa xôi tít tắp kia, nơi ấy lẩn khuất trong mây trắng và sương mù, nơi ấy không khí rất sạch và khoáng đạt, nơi mà hoa cúc dại nở vàng rực rỡ như mê như man đầy trong những thung lũng hoang vắng không có một bóng người nào. Phải ! Điều cốt nhất là phải không có một bóng người nào ! Như thế thì sống dễ lắm ! Nhất định rồi ông sẽ về đấy mà ! Ông sẽ về đấy... Ông nghĩ như thế ? Cho ngày mai...Mai... Hà Nội, tháng 12.1999 truyen ngan nhom lamtruyen.com Bản quyền thuộc về lamtruyen.com.

truyen sex hay Sóng Đưa Cuộc Tình

Truyện ngắn Sóng Đưa Cuộc Tình Tác giả: Trần Quang Thiệu Tuấn ôm bó hoa lóng ngóng đứng chờ trong phòng đợi của phi-trường. Dòng người chậm trãi bước ra như bất tận, Tuấn kiễng chân tìm kiếm nhưng vẫn chưa thấy hình bóng Thoa. Hôm nhận được email báo tin là Thoa sẽ vể thăm nhà vào dịp cuối năm Tuân vừa ngạc nhiên vừa mừng. Yêu nhau từ ngày còn học phổ thông ngoài Nha Trang, rồi cùng nhau vào Sài Gòn theo học đại học, Tuấn tưởng là hai đứa sẽ quấn quít bên nhau mãi mãi, nhưng mới được vài tháng Thoa đã được người bà con bên Mỹ đỡ đầu qua bên đó du học. Ngày chia tay Tuấn đã buồn đến nẫu cả người, mặc dù Thoa gục khóc trên vai Tuấn, hứa hẹn là chỉ vài năm xa cách rồi hai đứa sẽ gặp lại nhau, và sẽ sống với nhau suốt đời. Nỗi buồn rồi cũng ngưôi ngoai vì hầu như hàng ngày Thoa và Tuấn vẫn ‘chat’ với nhau qua Internet, và những lá thư qua email vẫn đầy ắp nhớ thương. Gần đây vì bận bịu thi cử, và lại phải đi làm thêm để kiếm tiền tiêu vặt, Thoa không còn liên lạc hàng ngày nhưng lâu lâu vẫn gửi thư cho Tuấn nên dù xa cách một đại đương nhưng Tuấn vẫn tưởng như là hai người trong tầm tay. Tuấn viết “Mới xa nhau chưa đầy một năm đã về ‘thăm nhà’. Nhớ anh hả?” Email trả lời của Thoa chỉ là vẻn vẹn là tấm hình happy face! - Sợ là Thoa sẽ quên anh. - Không. Thoa nhớ lắm. - Thật không? - Tin Thoa đi. Quên làm sao được. Chúng mình quen nhau mấy năm rồi. - Hơn ba năm. Tuấn ngậm ngùi nhớ lại những lời thủ thỉ khi tiễn đưa Thoa tại phi truờng mấy tháng trước. Hạnh phúc nào hơn niềm vui gặp lại người yêu ở xa về. Thoa ơi, anh nhớ em. Có em trên đời là anh có tất cả, em biết không? Cuối cùng thì Thoa cũng xuất hiện. Những câu nói chuẩn bị từ mấy hôm nay hình như quên hết, Tuấn chỉ lắp bắp được một chữ “Em ..” và ngẩn ngơ nhìn. Thoa bây giờ đã khác xưa, khuôn mặt đầy đặn hơn, là làn da trắng hồng thay vì rạm nắng Nha Trang. Mái tóc cũng đã được cắt ngắn, và chiếc áo pull cổ rộng thay thế chiếc chemise cổ bẻ ngày tiễn đưa. Thoa không còn là cô bé quê muà khóc thút thít ngày xa Việt-Nam, Thoa bây giờ rực rỡ với nụ cười tự tin: - Anh Tuấn! Tuấn vẫn chưa hết bàng hoàng: - Thoa. Em … Thoa đặt chiếc valise nhỏ xuống đất, một tay nhận bó hoa, một tay ôm vai Tuấn, tự nhiên như thể vẫn gặp nhau rất thường: - Anh Tuấn khoẻ không? Cám ơn anh, bó hoa đẹp quá. Tuấn đã lấy lại được bình tĩnh, nhìn Thoa rất lâu: - Em mệt không? Thoa nhoẻn miệng cười: - Không anh. Chỉ ăn và ngủ trên máy bay. - Trông em khác quá. - Thế hả? Khác sao anh? - Đẹp, và văn minh hơn xưa nhiều. Thoa cười dòn: - Cám ơn anh. - Và khách sáo hơn xưa nữa. Thoa lại cười: - Tại Thoa phải đi làm waitress ở bên đó nên quen miệng với những câu khách sáo đó thôi. Tuấn nhấc chiếc valise của Thoa lên: - Để về khách sạn rồi chúng mình nói hãy chuyện. Khách sạn nhỏ, nhưng đầy đủ tiện nghi, và cũng ở gần đây thôi. - Đâu cũng được. Thoa cũng chỉ ở tạm một ngày, mai về Nha Trang như là Thoa đã nói với anh. - Ước gì Thoa ở đây lâu hơn. Chúng mình xa nhau bao nhiêu lâu, có nhiều điều anh muốn nói. Thoa khoác tay Tuấn: - Thoa phải về Nha Trang ngay. Mẹ mong. Thoa sẽ trở lại Sài Gòn, vài ngày trước khi đi Mỹ. Chúng mình sẽ có nhiều thời gian với nhau. Tuấn thở dài: - Nếu không bận với kỳ thi thì anh đã theo em về Nha Trang. Thoa an ủi: - Tối nay chúng mình sẽ đi ăn với nhau rồi tha hồ nói chuyện. Bây giờ cho Thoa về khách sạn tắm rửa và nghỉ ngơi một chút. Ngồi thu mình trên ghế máy bay gần 20 tiếng, người Thoa mỏi nhừ. o0o Ngần ngừ mãi rồi Tuấn cũng phải ra khỏi phòng khách sạn vì Thoa kêu mệt, cần nghỉ ngơi. Thoa đúng nhìn cho đến khi Tuấn khuất bóng mới nhẹ thở dài, lục ví lấy chiếc điện thoại cầm tay, thuê bao từ bên Mỹ, bấm một hàng số dài, lắng tai nghe tiếng chuông reo: - Anh. - …. - Mới 3 giờ chiều ở đây. Nửa đêm ở bên đó, anh chưa ngủ sao? - …. - Báo anh biết tin vậy thôi. Ngủ ngon nhé. Thoa buông điện thoại, nằm vật ra giường, gác tay lên trán. Con buồn ngủ từ từ kéo đến, và trong giấc mơ hình ảnh người đàn ông rõ dần. - Thoa chờ xe bus hả? Hay là để tôi đưa Thoa về. - Phiền anh không, anh Phong? - Phiền gì. Nhà tôi cũng ở Milpitas. Thoa phải đi hai chuyến xe bus mới tới trường, đúng không? - Dạ đúng. - Mùa thu rồi, trời mau tối lắm. Thoa lên xe đi. Thoa rụt rè mở cửa xe, ngước mắt nhìn Phong: - Cám ơn anh Phong. Phong mỉm cười: - Tôi thật phục mấy sinh viên mới sang. Ai cũng chăm chỉ, chịu khó, phải đi xe bus đi học mà lúc nào cũng tới lớp đúng giờ. Chẳng bù cho bọn tôi. Sang đây lâu rồi nên đâm hư. Thoa e dè: - Anh và gia-đình sang Mỹ lâu chưa? - Cũng gần chục năm rồi, khi tôi mới 10 tuổi. - Như thế gia đình anh đã ổn định rồi há. - Cũng tạm, Thoa à. Bố mẹ tôi đều có việc làm, lao động thôi nhưng cũng đủ ăn, chứ không dư giả. Tốt nghiệp trung học xong tôi được nhận vào U.C Davis, nhưng không dám đi vì sợ tốn kém, nên theo học tại đại học cộng đồng này hai năm đã rồi tính sau. Cũng được hơn một năm rồi đó Thoa. Năm tới tôi sẽ chuyển trường, có lẽ vào San Jose State cho gần nhà vì trường này cũng không kém gì U.C. Davis. - Thảo nào trong lớp accounting thấy anh Phong vững qua. Thoa vừa đánh vần vừa đọc. Phong bật cười: - Mới sang, Anh ngữ còn kém. Thoa dám lấy lớp này, và theo kịp thế là giỏi rồi. Tôi phải đợi đến lúc gần cuối cùng vì ghét cái môn bắt buộc trong chương trình business này. - Không có anh giúp, giảng thêm cho thì sợ rằng Thoa theo không nổi. Cám ơn anh Phong nhiều lắm. - Come on! Trong lớp bạn bè bài cãi với nhau về bài vở là chuyện thường. À, tới đường Park Victoria rồi, quẹo trái hay quẹo phải về nhà Thoa? - Trái, anh. Nhà bác Thoa sơn mầu vàng đậm đó. Phong từ từ ngừng xe, quay sang nhìn Thoa: - Tiếc là buổi trưa tôi phải đi làm, nếu không tôi tới đón Thoa đi học chung cho vui. Thoa ngạc nhiên: - Anh phải đi làm hả? Làm tại đâu? - Ở Mỹ hầu như sinh viên nào cũng phải đi làm kiếm thêm tiền. Tôi làm waiter tại nhà hàng P.F. Chang. Buổi trưa thôi, xong là vắt giò chạy tới trường. Thoa học lái xe đi rồi nếu có muốn đi làm tôi giới thiệu cho. Thoa mở lớn mắt: - Thật nhé. Bác Thoa cho Thoa cái xe cũ, Thoa đang tập lái. Khi nào có bằng anh Phong giúp Thoa xin việc nhé. Bây giờ cám ơn anh, mai gặp lại anh tại trường.. Phong gật đầu, ngồi nhìn theo bóng Thoa khuất hẳn sau cánh cửa mới từ từ lăn bánh chiếc xe đã cũ mèm. Trong cái lớp accounting đó cũng có vài sinh viên Việt-Nam nhưng Phong để ý đến cái vẻ ngơ ngác dễ thương của Thoa ngay hôm khai giảng đầu tiên. Thoa e dè ngồi nép sát tường, đưa mắt nhìn quanh, thấy Phong nhưng không dám chào vì không biết Phong là Việt hay Tàu. Chỉ đến khi vị giáo sư điểm danh, Phong và Thoa mới biết cả hai đều họ Nguyễn, và nhìn nhau mỉm cười. Phong nắm nhẹ tay Thoa dẫn ra xe: - Winter break, được nghỉ hai tuần nhưng không có Thoa ở đây anh cũng chẳng biết đi đâu. Thoa âu yếm nhìn Phong: - Thoa nói với anh rồi mà. Thoa phải về VN thăm nhà vào dịp này. Tối mai Thoa lên đường. - Sẵn sàng chưa? Hành lý nhiều không? Thoa che miệng cười: - Đi làm mấy tháng mới dành đủ tiền vé máy bay và chút quà cho mẹ, cho em. Hành lý của Thoa nhẹ tênh, chỉ có một valise nhỏ. Phong đề nghị: - Bây giờ đừng về nhà. Đi ăn tối với anh, tối mai anh đưa Thoa ra phi trường. Thoa gật đầu: - Đi! Ăn cơm Tàu nhé. Hôm nay Thoa bao anh, trả công anh xin việc cho Thoa. Tuấn nheo mắt cười: - Sài sang há! Nhưng thôi, anh mời mà. Để tiền về Sài Gòn chi tiêu, và gọi điện thoại cho anh, nhớ chưa? Thoa nhìn Phong, đôi mắt long lanh: - Nhớ Thoa không? Phong quàng vai Thoa kéo sát vào mình: - Nhớ. Ước gì chúng mình được đi chung với nhau nhỉ. Thoa dựa đầu trên vai Phong: - Sẽ có một ngày. Anh Phong nè. - Anh nghe. - Có bao giờ anh tin vào duyên nợ không? ` Phong cười: - Tin. Anh là ‘nợ’ của em! Ra khỏi tiệm ăn Phong vẫn chưa muốn về liền nên rủ Thoa: - Đi coi movie với anh nhé. Thoa đi sát vào Phong, nhè nhẹ lắc đầu: - Cho Thoa về. Còn phải xếp đồ. Mai gặp lại anh. Phong hôn nhẹ vành môi Thoa: - Mới 9 giờ tối. Nhưng được rồi, để anh đưa em về. Phong lái xe nhưng thỉnh thoảng vẫn nhìn sang phiá Thoa mỉm cười.Thoa cũng mỉm cười nhìn Phong, Trong bóng đêm ánh đèn của những chiếc xe đi ngược chiều soi rõ vành môi tươi và đôi mắt long lanh. Khi xe ngưng trước nhà, Phong dằn lòng không được nên ôm hôn Thoa thật nồng nàn. Thoa cũng lịm đi trong đôi tay người yêu, nhưng khi Phong luồn tay vào trong áo, Thoa oằn người: - Please, don’t. Phong ghé sát tai Thoa thì thầm: - I love you. Thoa ôm cổ Phong, dụi đầu trên vai bạn: - Thoa biết. Anh về ngủ ngon. Đậu xe lâu bác Thoa thấy là Thoa bị la cho mà xem. Phong ngần ngừ nới lỏng vòng tay cho Thoa ra khỏi xe. “Bye em”, Phong nói nhỏ, mắt đăm đăm nhìn theo Thoa, giơ tay vẫy chào mỗi lần Thoa quay lại nhìn. Bà Hảo âu yếm nhìn con: - Con về mẹ mừng lắn, nhưng con mới đi chưa đầy một năm, vội về thăm nhà làm gì cho tốn tiền. Thoa nắm tay mẹ: - Mẹ, con chỉ có thể về thăm nhà và trở lại Mỹ trong vòng một năm. Sau một năm visa hết hạn, nếu ra khỏi Mỹ là không thể trở vào. Con về thăm nhà lần này vì sau lần này có lẽ còn lâu lắm con mới về được. - Vài năm nữa học xong con về, cũng không lâu lắm đâu con ạ. - Mẹ. Không chắc là con về ngay đâu. - Con nói sao? - Học xong con muốn ở lại đi làm, lấy kinh nghiệm, hoặc học cao hơn. Bà Hảo tần ngần: - Như vậy bao lâu con mới về? - Ít ra cũng dăm bẩy năm, có thể lâu hơn. Bà Hảo buồn dầu: - Lâu quá, không biết mẹ có còn sống chờ con không. Lại còn thằng Tuấn nữa. Các con bàn với nhau chưa? Thoa cúi đầu thở dài: - Mẹ … Hôm qua chúng con có gặp nhau, đi ăn với nhau bữa tối, nói với nhau đủ thứ chuyện. Tuấn là người hiểu biết mẹ ạ … Bỗng dưng Thoa ngừng nói, đứng lên: - Mẹ nằm nghỉ. Con muốn đi dạo ngoài bãi biển một lúc. Lâu rồi không thấy biển, nhớ quá mẹ ạ. Thoa đi dọc theo đường Trần Phú, mắt lơ đãng nhìn ra khơi, mơ màng nghĩ ngợi vẩn vơ, nỗi buồn còn như vương vấn khiến Thoa không khỏi lâu lâu thở dài, nhớ lại những gì xảy ra tối hôm qua. Buổi tối giữa tuần ngoài vườn quán café gần khách sạn vắng vẻ, lơ thơ vài người khách. Thoa ngồi sát vào Tuấn, để yên bàn tay cho Tuấn nắm giữ, nhưng khi hai vành môi vừa chạm nhau Thoa đã giật mình: - Đừng, anh. Tuấn ngạc nhiên: - Em sao vậy? Thoa ngập ngừng cúi đầu: - Thoa xin lỗi. Tuấn vẫn ngơ ngác chờ một lời giải thích nhưng Thoa vẫn yên lặng, mãi sau mới khẽ thờ dài: - Thoa có chuyện này muốn nói với anh. Định để đến trước khi Thoa trở lại Mỹ, nhưng thôi … Tuấn nôn nóng: - Có chuyện gì, em nói anh nghe. Thoa vẫn cúi đầu, thở ra nhè nhẹ: - Thời gian đã thay đổi nhiều rồi anh Tuấn ạ. Tuấn nhíu mày nghĩ ngợi, rồi như hiểu ra: - Em muốn nói là em đã thay đổi? Thoa ngước mắt nhìn Tuấn, ánh mắt thật buồn, không nói. Tuấn nuốt nước bọt một cách nặng nề: - Em đã thay đổi, và không còn … yêu anh nữa, phải không? Thoa không trả lời ngay vào câu hỏi: - Em về lần này chỉ là để gặp anh, xin anh tha lỗi. Giọng Tuấn cay đắng: - Em đâu cần về. Một lá thư, hoặc cứ im lặng cũng là đủ rồi. Thoa lấy hết can đảm nhìn thẳng vào mắt Tuấn: - Anh. Chúng mình yêu nhau nhiều năm. Hoàn cảnh đưa đẩy khiến chúng mình xa nhau, nhưng em vẫn nợ anh một món ân tình, dù sao em cũng phải gặp anh, xin anh tha lỗi, và sợ rằng như thế vẫn chưa đủ. Mong anh hiểu cho Thoa. Tuấn nhếch môi cười: - Hiểu cho em? Hừm … Anh biết nói gì bây giờ. Cả hai đều im lặng, lâu lắm Tuấn mới lại khó nhọc mở lời: - Em đã gặp người khác? Thoa nặng nề gật đầu: - Dạ. - Hơn anh trăm lần? Thoa buồn bã lắc đầu: - Khác anh, nhưng anh ấy ở gần. Có lần Thoa khóc vì nhớ anh, anh ấy ở bên đã đưa khăn cho Thoa lau nước mắt, và ôm vai Thoa vỗ về. Tuấn cắn răng: - Mỹ? Con nhà giầu? - Van anh, đừng khinh Thoa như vậy. Tên anh ấy là Phong, học cùng trường nhưng trước Thoa một năm. Tuấn cười buồn: - Anh đành làm người tình thua! Thoa ngập ngừng: - Anh Phong chỉ là một lý do. Lý do nữa là có thể còn lâu lắm Thoa mới trở về Việt-Nam. Thoa muốn đi hết con đường học vấn, và Thoa không muốn anh chờ đợi, không biết đến bao giờ. Tuấn cúi đầu buồn bã: - Khi tiễn em đi du học anh đã nghĩ đến một ngày như thế này, nhưng không ngờ ngày đó đến hơi sớm hơn là anh tưởng. Em qua bên đó, chân trời rộng mở, em có trăm con đường để chọn lựa. Ở đây anh không có gì cho em ngoài một tương lai mù mờ. Anh buồn nhưng anh hiểu, và đành cam chịu phận mình. - Thoa xin lỗi anh, nhưng anh nói đúng. Cũng như anh, em hiểu thân phận mình, và em đang phấn đấu. Em may mắn hơn anh, có những lựa chọn không tìm được ở đất nước này. Em không bào chữa cho mình nhưng cái em lựa chọn cũng có phần mất mát, đó là tình yêu của chúng mình. Dù anh tin hay không, em cũng đã có những giây phút rất buồn. Tuấn nâng ly café đã nguội lạnh lên môi nhưng rồi thẫn thờ đặt xuống: - Dù sao thì cũng cám ơn em đã về tận đây để chia tay. Bây giờ chúng mình về được chưa. Thoa ngập ngừng: - Anh về trước, cho Thoa ngồi lại đây một chút. Khách sạn cũng gần đây, Thoa về một mình được, anh Tuấn ạ. Cám ơn anh nhiều, và mong anh tha lỗi cho Thoa. Tuấn đứng lên: - Chào em. Chúc em những ngày vui với gia đình. Thoa ngồi câm lặng nhìn theo Tuấn lủi thủi ra khỏi quán café. Dù đã cố nén nhưng Thoa cũng không ngăn được tiếng thở dài, đưa tay chùi giọt nước mắt ứa ra đọng trên mi. Khi nỗi buồn đã lắng xuống Thoa mới lục ví lấy điện thoại gọi cho Phong. - Thoa đây. Mới bảy giờ sáng bên đó, Thoa có đánh thức anh dậy không? - … - Em mới gặp Tuấn xong … Rất buồn. - … Thoa lại đưa tay chùi nước mắt: - Tội nghiệp lắm nhưng cũng đành. Anh ngủ tiếp nhá. Mai Thoa ra Nha Trang sẽ gọi lại cho anh. Nhớ anh lắm. - … - Bye anh. Trở về khách sạn Thoa không sao ngủ được, một phần vì trái giờ giấc, một phần vì lạ chỗ, và nhất là vì xúc động khi chia tay với người mà một thời đã yêu thương. Thoa trăn trở thở dài, chỉ mong cho chóng sáng để lên tàu về Nha Trang với gia đình, với bạn bè của tuổi thơ, với hàng dừa và gió biển không tìm thấy ở Thung Lũng Hoa vàng bên kia Thái Bình Dương. Gần cuối năm trời u ám nhưng không có gió. Biển màu xám đục và những con sóng bạc đâù theo nhau chạy vào bờ. Thoa ngồi trên bãi cát nhìn ra xa, biển vắng không bóng ghe tàu, chỉ vài con hải âu bay lững lờ về một nơi vô định. Chỗ này những ngày thơ dại đó Thoa và Tuấn đã để lại bao dấu chân, những chiều hoàng hôn với vòng tay quấn quít, và những nụ hôn lén lút vội vàng. Sóng đã xoá nhoà những dấu chân, thời gian và đôi bờ đại dương xa cách đã xoá nhoà cuộc tình. Thoa lại thở dài, tha lỗi cho em nghe Tuấn, kỷ niệm êm đềm nhưng chỉ là dĩ vãng đã trôi theo thời gian. Thoa đứng lên, rũ sạch những hạt cát, nói thầm như thể là Tuấn đang lắng nghe, làm sao để không có những mất mát ở đời anh nhỉ, tha lỗi cho em nghe anh. truyen ngan nhom lamtruyen.com Bản quyền thuộc về lamtruyen.com.

truyen sex hay Sóng Gió Đồ Sơn

Truyện ngắn Sóng Gió Đồ Sơn Tác giả: Khái Hưng Năm giờ sáng. Sau hàng lan can chạy thẳng ngăn bãi cát lượn vòng theo hình bán nguyệt, rặng nhà phố Ðồ Sơn cửa chớp đóng kín như có chiều hờn giận vừng thái dương vội mọc. Những khóm thông rung rinh đương thì thầm cùng nhau câu chuyện bí mật được nghe tối hôm qua ở trên bãi biển. Cho chí làn sóng buổi chiều xô đẩy vào bờ nô đùa, gầm hét dữ dội như thế, giờ cũng như chán nản, lặng lẽ, từ từ kéo nhau xa lánh. Phố Ðồ Sơn sau một buổi nhộn nhịp, vui cười, bây giờ như đương miên man trong giấc mộng. Trên bãi cát vàng bỗng có tiếng cười khanh khách: Ba cô thung thăng đi đi lại lại trò chuyện huyên thuyên. Cô Bạch Tuyết bảo cô Vân Lan và cô Thu Cúc: - Hai cậu ạ, nhất định em không sợ, em cứ để hắn hy vọng hão Thu Cúc mỉm cười: - Liệng hồn! Không đùa lại hóa thật! - Tức cười chết đi, hai cậu ạ. Nếu em đưa hai cậu xem bức thu hắn gửi cho em chiều hôm qua, thì hai cậu phải vỡ bụng. Vân Lan vội hỏi: - Ðâu? Thư đâủ - Rõ khéo, thư riêng của chị ấy lại đòi xem. - Ðốt cậu đi! Riêng với tây gì? Ðây, thư đây. Cậu Thu Cúc có muốn giữ làm mẫu thì em cũng xin biếụ Vừa nói, Bạch Tuyết vừa mở túi lấy ra một tập giấy màu tím nực những mùi nước hoa và đọc: "Thưa Bạch Tuyết tiểu thư, Từ khi được giáp mặt hoa đào, ngày đêm tôi âu sầu tưởng nhớ. Ðã nhiều phen mượn giọt mực đen, tờ giấy tím để giải tỏ tấm gan vàng với người mắt xanh..." Ðọc đến đây, Bạch Tuyết cười sằng sặc, đánh rơi bức thư xuống đất. - Trời ơi, hai cậu coi, lối văn bốn màu: mực đen, giấy tím, gan vàng, mắt xanh, chỉ thiếu một màu trắng là đủ màu ngũ sắc. Ước gì khối tình của cậu Văn Hải tôi cũng được nhiều màu như thế. Vân Lan nửa nghiêm khắc, nửa giễu cợt: - Chị thì cứ cả đời! Có đọc nốt cho người ta nghe với không? - Có tài thánh, thư dài bảy, tám trang thế này, ai đọc hết được?... Nhưng có một đoạn cảm động lắm, câu này thi sĩ Thu Cúc vảnh tai lắng tinh thần mà nghe: "Thưa tiểu thư, tôi yêu tiểu thư ngay từ cái phút đầu mới gặp. Tôi theo tiểu thư như cái bóng. Một buổi chiều mùa đông tôi đứng nấp ở trước cửa nhà tiểu thư tôi chờ, tôi mong, tôi ao ước được liếc trộm dung nhan. Ðợi trong hai tiếng đồng hồ, gió bấc mưa phùn rét buốt tận xương, thì tấm lòng thành thực của tôi như động đến tâm hồn tiểu thư, khiến tiểu thư ra nơi cửa sổ nhìn xuống. Trời ơi! Tôi suýt ngất đị.. Trái tim tôi nó hồi hộp, nó đập thình thình như muốn phá ngực ra mà bay lên trước dung nhan. Tiểu thư ôn lại trong trí xem có còn nhớ cái buổi chiều đáng kỷ niệm ấy không (Bạch Tuyết làm bộ ngẫm nghĩ rồi cười, nói: không, không nhớ). Nửa người tiểu thư đứng trong cái khung cửa hình như bán thân một tiên nga vẽ trong bức tranh tuyệt bút. Tóc tiểu thư bỏ xõa như đám mây buổi hoàng hôn, hai con mắt tiểu thư lấp la lấp lánh như hai ngôi sao sáng nhất trên trờị..” Bạch Tuyết lại cười: - Anh chàng ngày dáng chừng là một nhà thi sĩ. Thu Cúc lúc nghe đọc thư hai mắt chớp luôn hình như có vẻ cảm động lắm. Cô dịu dàng bảo bạn: - Sao chị vô tình đến thế? Nỡ đem tình thành thật của người ta ra mà chế giễụ - Cậu bênh kia à? Cậu muốn yêu thì tôi nhường cho đấy. Trong thư Văn Hải nói chiều nay hắn ra, “moa” giới thiệu cho nhé? Bỗng ở lan can có tiếng gọi: - Tuyết! Mời hai chị về ăn sáng, con. Nghe tiếng mẹ gọi, Bạch Tuyết cùng hai bạn vội chạy về nhà. Chiều hôm ấy trong khi hàng trăm con người vừa đàn ông đàn bà, già trẻ, vùng vẫy nô đùa với làn sóng nhấp nhô, thì trên bãi cát trước cửa biệt thự "Dương Liễu" một chàng vận Âu phục đầu chải lật bóng loáng, đương thung thăng bách bộ, mắt chăm chăm nhìn lên cửa sổ trên gác. Một tràng cười giòn ở sau lưng khiến chàng quay cổ lại. Ba cô thiếu nữa, đầu rẽ lệch, vận quần trắng áo màu, đứng cách chàng chỉ độ ba bước. Một cô nói như có ý trêu ghẹo: - Thưa ông, ông muốn hỏi ai ở cái nhà ấy, mà cứ thấy ông ngửng mãi đầu lên nhìn cửa sổ? Ấp úng, lúng túng, hai má ửng tận tai, chàng kia lắp bắp: - Thưa cô... tôi là... Văn Hảị Bạch Tuyết, hồi chuông điện của nhịp cười lại bấm: - Thưa ông, còn tôi, thì tôi là Bạch Tuyết. Thu Cúc hai ba lần kéo áo, cùng bấm chị, nhưng Bạch Tuyết như không lưu ý, cứ nghiễm nhiên vừa cười vừa nói: - Thưa ông, chỉ có thế? Hay ông còn muốn hỏi điều gì nữả Chả biết nói gì, Văn Hải ngả đầu chào rồi định quay đi, thì Bạch Tuyết vẫn chưa tha, lại gọi giật lại: - Này ông Văn Hải. Ông đánh rơi bức thư, tôi lượm được thấy có tên ông ký ở dưới, vậy xin nộp lại ông. Văn Hải, vì có Thu Cúc và Vân Lan, nên xấu hổ quá, mặt đỏ như viên gạch nung. May sao Bạch Tuyết lại nói tiếp luôn: - Hay ông bằng lòng cho tôi để tôi tập lối viết văn rất hay của ông thì tôi cũng xin cảm ơn mà nhận. Văn Hải như người chết đuối vớ được mảnh ván, liền gượng cười đáp lại: - Vâng, xin biếu cô. - Không có điều gì quan hệ trong thứ đấy chứ? Văn Hải đã bạo hơn trước: - Thưa cô, cái đó tùy ở cô. - Nghĩa là thế nàỏ - Nghĩa là nếu cô cho là quan hệ thì quan hệ. - Tôi vẫn không hiểụ.. À quên, tôi xin giới thiệu ông, hai chị tôi đây là Vân Lan và Thu Cúc cùng học năm thứ ba tại trường nữ sư phạm với tôi. Chi. Thu Cúc tôi cũng là một thi sĩ như ông. Văn Hải ngả đầu chào. Còn Thu Cúc thì bẽn lẽn, cúi đầu, mũi giày bấm xuống cát. - Chị rõ lôi thôi lắm! Ai là thi sĩ! Nào Bạch Tuyết đã tha cho đâu: - Thưa ông, bây giờ thật hết chuyện. Vậy chị em chúng tôi xin mạn phép từ giã ông, để đi dạo chơị Dứt lời, cô dắt tay hai bạn đi đến một đống đá chồng chất ngổn ngang, nước thủy triều tràn, giũa lâu ngày đã nhẵn bóng. Ba người vừa trèo lên ngồi vắt vẻo, khúc khích cười với nhau, thì đã thấy Văn Hải lượn lại gần, đánh bạo hỏi to: - Thưa ba cô, ba cô không tắm? Bạch Tuyết khom hai bàn tay đặt vào miệng làm như cái loa, rồi vừa cười vừa đáp lại: - Thưa ông không, chúng tôi sợ cá lợn lắm! Cụt hứng, Văn Hải lảng xạ Thu Cúc thấy bạn quá tàn nhẫn, trách: - Chị trêu người ta làm gì mãi thế! - Thì việc gì đến chị?... Ðạo đức mãi! Ra ngoài này nếu không có chuyện ngộ nghĩnh như thế thì buồn chết, thà về Hà Nội còn hơn. Thu Cúc thở dài, nói một mình: - Vô tình đến thế là cùng! Hai hôm sau, Vân Lan về Hà Nội. Suốt nửa tháng, chiều nào Bạch Tuyết và Thu Cúc đi chơi hay đi tắm cũng gặp Văn Hải lượn quanh. Mà lần nào, Bạch Tuyết nhận được thư của chàng cũng đem đọc cho bạn nghe. Thu Cúc thấy vậy sinh cáu, mấy lần định cự tuyệt. Một hôm hai chị em gặp Văn Hải tay cầm cuốn sách, Bạch Tuyết hỏi đùa: - Quyển gì đấy ông? - Thưa cô quyển l Amie et la Maítresse (1). - Bạn và bà chủ, hay bạn và cô giáo, thưa ông? Văn Hải mỉm cườị - Thưa ông, có hay không. - Thưa cô, hay lắm! - Chúng tôi đọc được chứ? Ông cho mượn nhé? - Xin vâng. Về tới phòng, Bạch Tuyết quẳng cuốn sách vào ngăn kéo. Thu Cúc cười, hỏi: - Mượn về không xem thì mượn làm gì? - Trêu nó chơi, chứ xem xiếc gì! Ðấy cậu có đọc thì đọc.... Ðọc xong kể lại chuyện cho tôi nghe với nhé. Mấy hôm nữa lỡ hắn hỏi nếu chả biết đằng nào mà trả lời thì hắn sẽ khinh chết. Thu Cúc thong thả đáp: - Ðược, chị để tôi đọc chọ Tối hôm ấy Bạch Tuyết đi ngủ đã từ lâu. Một mình Thu Cúc vẫn loay hoay với pho tiểu thuyết. Mà nào cô có đọc! Cô chỉ gấp sách chống tay vào cằm ngồi mơ mộng, cảm động về những câu tư tưởng và những bài thơ của Văn Hải viết ở rìa sách. Thu Cúc nghĩ thầm: - Ðáng thương! Con người đa tình mà đi yêu một tảng đá! Hai giọt nước mắt long lanh ở cặp mi như hạt sương buổi sáng rung rinh trên lá... Bỗng Thu Cúc phì cười: "Rõ mình khéo cảm động hão! "Nhưng cũng nên bảo cho anh đồ biết mà thôi đi, đừng đeo đuổi nó mãi vô ích. Phải đấy, ta làm phúc bảo giùm! Hay ta học một bài thơ chơi" Thu Cúc liền mở từ đầu quyển sách lại một lượt để tìm bài thơ nào tình tứ nhất thì họạ Song những câu tư tưởng và các bài thơ viết toàn bằng chữ Pháp. Có một bài đề tặng người bạn gái, đại ý như sau: "Ái tình là gì? Là một lời vĩnh biệt làm tan nát lòng người chăng? Hay là nụ cười chua chát ở cặp môi thắm, Rơi vào luồng gió nó cuốn đi trên đôi cánh hồng? Nếu ái tình là thế, thì than ôi! Sầu thảm biết bao! Vì tưới bằng nước mắt nhân loạị Những bông lúa tốt tươi, những bông hoa hồng rực rỡ. Chỉ sẽ là những vật rã rời khô héo dưới trời xanh." Bài thơ này cũng như mọi bài khác tuy chỉ toàn bằng những ý tưởng sáo, theo trong các tập thơ Lamartine và Musset, song Thu Cúc cho là tuyệt bút, đặc sắc chẳng kém gì những bài thơ hay của các thi hào bên Pháp. Ðọc xong, Thu Cúc mỉm cười: "Họa lại cũng khó lòng. Thì ta cứ trả lời bằng một bài thơ quốc âm đã sao. Cốt anh chàng hiểu thôi mà, tiện nhất cho ta là phê vào đây một câu“ Sáng tinh sương, Văn Hải đương thơ thẩn ngồi trên bên chòm đá, bỗng vơ vẩn mắt chàng đặt tới một tảng đá có bốn chữ lớn viết bằng gạch non Văn Hải - Thu Cúc. Chàng nghĩ thầm, lẩm bẩm: - Chả có lẽ lại thế. Chàng còn đương phân vân thì con hầu nhà Bạch Tuyết lại gần đưa trả quyển sách: - Thưa cậu, cô con bảo đem nộp cậu quyển sách cậu cho mượn hôm nọ. - Cô nàỏ - Cô Thu Cúc con. - Thôi được. Văn Hải vội vàng mở sách ra xem lại những chỗ mình có đề thơ, thì dưới bài "Ái Tình" thấy có phê một câu: "Ái tình nào chỉ có thế? NÓ còn ngoắt ngoéo hơn nhiều kia! - Nụ cười chua chát cũng chưa tệ chưa ác. Có khi nụ cười dịu dàng thời như đóa hoa hàm tiếu mà trái tim kẻ kia vẫn lạnh như đồng, trơ như đá." Văn Hải xem xong, mỉm cười nói: - Ðược, ta nghĩa ra mưu kế rồị Chiều hôm ấy Bạch Tuyết và Thu Cúc đương đi chơi trên bãi cát, thì Văn Hải tay cắp vài quyển sách tiến đến trước mặt cất mũ, ngả đầu chào: - Thưa cô, vì thấy cô thích đọc tiểu thuyết nên tôi lại đưa cô mượn mấy quyển nữạ Ở đây ngoài sự tắm bể với sự xem sách dễ chả có chi là thú. Bạch Tuyết không biết rằng Thu Cúc đã trả sách, vội vàng từ tạ: - Thưa ông, quyển sách ông cho mượn bữa nọ chúng tôi xem chưa xong, ông hãy để thong thả. Văn Hải cười nhạt, gằn từng tiếng: - Thưa cô, tôi nói cô Thu Cúc kia ạ. Tôi vẫn biết cô không ưa đọc sách. Có phải không thưa cô Thu Cúc? Thu Cúc phần thì sung sướng, phần xấu hổ, bẽn lẽn cúi đầu, không trả lời. Còn Bạch Tuyết thì tuy tức uất người nhưng cố giữ không để nộ khí biểu lộ ra nét mặt, vừa cười vừa nói một cách tự nhiên: - Ðấy! Tôi đã bảo mà. Có sai đâu! Hai hồn thơ rồi thế nào cũng gặp nhau, cũng hiểu nhau, cũng... yêu nhaụ Thu Cúc cau mày gắt: - Bậy! Ðùa gì mà cứ đùa quá! Hai người nói chuyện bằng sách với nhau như thế được một tuần lễ. Mục đích Văn Hải là chỉ cốt để trêu tức Bạch Tuyết, nhưng Bạch Tuyết hình như không hề để tâm đến, gặp Thu Cúc xem sách, cô chẳng nói chi hết, đến nỗi Thu Cúc thấy bạn quá lãnh đạm, phải lấy làm ngượng và khó chịụ Một đêm Thu Cúc thức giấc không thấy bạn nằm bên. Nhìn ra hiên thì đèn điện vẫn sáng. Tò mò, rón rén dậy, nấp xem bạn làm gì, thì thấy Bạch Tuyết ngồi ghế hai tay ôm đầu, cặm cụi đọc sách. Bấy giờ vào khoảng một, hai giờ sáng; nước thủy triều đương lên to, ầm ầm đánh vào đống đá chân tường hoa. Gió thổi vù vù, lá thông reo, rít... Nếu vạn vật dữ dội kia im tiếng độ một phút thì sẽ nghe thấy tim của Bạch Tuyết đập rất mạnh. Thu Cúc lại vào giường nằm. Nhưng đường kia nỗi nọ, trăm mối vấn vương, không sao ngủ được. Phần cảm động về những bài thơ của ai, phần căm tức bạn ban ngày làm ra mặt lãnh đạm đối với Văn Hải, mà đêm khuya chờ mọi người yên giấc, trở dậy lấy trộm sách ra xem. Thu Cúc liền lại trở dậy, rón bước ra hiên, thì thấy Bạch Tuyết gục đầu xuống quyển tiểu thuyết đương khóc nức nở. Thu Cúc vốn đa cảm thấy thế động tâm thương hại, lền đến gần dịu dàng đặt tay lên tay bạn. Bạch Tuyết giật mình đứng phắt dậy hỏi: - Aỉ... Chị đấy à? - Khuya rồi, đi ngủ thôi chứ! - Ðược, chị cứ đi ngủ trước đi. Tôi chưa buồn ngủ. - Lại còn trước với sau. Gần sáng rồi. Mê đọc truyện thế mà làm bộ không thích tiểu thuyết. - Rõ khéo! Việc gì đến chị? - Chị giận đấy à? - Ai hơi đâu! Dứt lời Bạch Tuyết vùng vằng quay vào phòng. Thu Cúc theo sau hỏi: - Chị giận em thực đấy à?... Có chuyện gì cho em biết với, xem em có thể an ủi được chị chăng? Can chi chỗ chị em với nhau, chị cứ giấu em thế? Bạch Tuyết ngồi phịch xuống giường: - Chị dấu em thì có... Sao chị với Văn Hải cùng nhau họa thơ mà... - Vậy chị yêu Văn Hảỉ Bạch Tuyết không trả lời, hai dòng lệ ràn rụa trên má. Thu Cúc nói: - Em xin thề với chị rằng em không có tình gì với Văn Hải hết. Chẳng qua buồn thì họa thơ chơi đó thôị Lòng trắc ẩn đã khiến Thu Cúc thề một câu không thực. Thì ra ái tình thật lạ! Hơn một năm trời, Văn Hải thầm yêu Bạch Tuyết đến nỗi mất ăn, mất ngủ, bỏ cả những việc học. Trước Bạch Tuyết còn không lưu ý đến, sau thấy anh cứ luôn luôn bên mình, thì lấy làm khó chịu, tìm hết sức trêu ghẹo cho bõ ghét. Song từ hôm ra Ðồ Sơn, Bạch Tuyết thấy tính tình đổi khác hẳn. Khi mặt trời mọc, khi mặt trời lặn, khi ánh trăng chơi vơi trên làn sóng, khi tiếng gió vù vù thổi rạp lá thông, Bạch Tuyết đều cảm thấy trong lòng nẩy ra một mối tình vô hạn. Có buổi chiều, ngồi một mình trên mỏm đá, ngắm chiếc thuyền nhấp nhô mặt biển, Bạch Tuyết thấy trái tim đập mạnh như hồi hộp vì aị - Hay ta yêu? Nhưng yêu aỉ Trong khi ấy thì Văn Hải luôn luôn quanh lượn bên mình. Ðối với chàng trước cô còn ghét, sau lãnh đạm, dần dần nói đùa trêu ghẹo. Thành thử cái lòng yêu, buổi mới nó chỉ miên man cùng vừng trăng, cùng làn sóng, nay thấy liên can tới người mình gặp giữa cảnh trăng soi, sóng vỗ. Lại thêm mấy hôm trước ngồi buồn, mở một quyển tiểu thuyết của Văn Hải ra đọc, cô thấy nhan nhản những thơ tình đề ở rìa sách. Những bài thơ ấy giá hai ba tháng trước lọt vào mắt Bạch Tuyết thì Bạch Tuyết cho là gàn, là dở. Nay thì cô thấy hay, đọc lên thấy cảm động. Chỉ vì những bài thơ tình ấy nay đặt vào trong một cái khung thích hợp với ái tình. Hai hôm sau, Bạch Tuyết thấy mình ghét Thu Cúc... Ghét rồi ghen. Người đời vẫn thế, cái gì dẫu mình không thích, khi thấy vào tay người khác mình cũng lấy làm khó chịu. Huống cái thích của người, - tuy người ấy là bạn thân, nay lại trở nên cái thích của mình. Một buổi sáng, Văn Hải nhận được bức thư có vài dòng vắn tắt: "Ông nên viết thư an ủi Bạch Tuyết là người đương phiền não âu sầu vì ông. Và tôi ước mong rằng chẳng bao lâu bạn thân của tôi sẽ là Bà Văn Hảị.. Thu Cúc thấy Bạch Tuyết yêu Văn Hải và thấy đối với mình, Văn Hải một ngày một thêm quyến luyến, nên quả quyết hi sinh ái tình vì bạn. truyen ngan nhom lamtruyen.com Bản quyền thuộc về lamtruyen.com.